Loài người ra
đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra những giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối thiên kỉ IV TCN, xã hội
nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời, từ đó loài người
mới bắt đầu bước vào thời kì văn minh.
Vùng Tây Á là
nơi xuất hiện sớm nhất nhiều quốc gia có nền văn minh nổi tiếng như Lưỡng Hà,
Babilon, Assyria, Phoennicia, Palestine...Văn minh Tây Á cũng là sự tổng hợp,
hội tụ của nhiều nền văn minh. Những nền văn minh ấy vừa có sắc thái riêng, vừa
có sự kế thừa và phát triển đồng thời tác động lẫn nhau. Trong số đó, văn minh
Lưỡng Hà có trình độ phát triển về các mặt kinh tế, chính trị và văn hóa cao
hơn cả.
Nằm trên vùng
chảy qua của hai con sông lớn là Tigro và Ơphrat, với sự phát triển nông nghiệp
tuy còn trong điều kiện khó khăn đã dẫn đến sự xuất hiện cùa nhà nước Lưỡng Hà.
Do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nên
những nền văn minh vô cùng rực rỡ.
Lịch sử Lưỡng
Hà là lịch sử của nhiều quốc gia, dân tộc. Những thành tựu văn minh là sự tổng
hợp những thành tựu văn minh của tất cả các quốc gia, dân tộc đã sinh sống
trong vùng Lưỡng Hà, trong đó người Xume đóng vai trò hết sức to lớn, vì họ đã
lập nên những quốc gia đầu tiên và cũng chính họ là người đặt nền móng cho nền
văn minh ở khu vực này. Các nền văn minh Lưỡng Hà phát triển tương đối toàn
diện, phong phú có sự kế thừa và phát triển.
Là một trong
những cái nôi của nền văn minh nhân loại, văn minh Lưỡng Hà cổ đại đã có nhiều
thành tựu đóng góp vô cùng to lớn, có nhiều ảnh hưởng tớn nền văn minh của các
quốc gia ở Tây Á và nền văn minh Hy-La...
A.
TỔNG QUAN VỀ LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI
I. Cơ sở
hình thành
1. Điều kiện tự
nhiên
Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là miền giữa hai
sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mê đốt
(ở giữa) và pôta mốt (sông). Hai sông
đó là sông Tigro ở phía Đông và Ơphrat ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt
nguồn từ miền núi Acmenia chảy qua lãnh thổ nước Irac ngày nay rồi đổ ra vịnh
Ba Tư (Pecxich).
Về địa hình,
Lưỡng Hà có địa hình bằng phẳng, ít núi non hiểm trở, không có biên giới tự
nhiên nên giao thông thuận lợi đồng thời chiến tranh cũng xảy ra liên miên dẫn
đến sự pha trộn giữa các nền văn hoá khác nhau .
Khí hậu khắc nghiệt, hè nắng cháy ở phương Nam ,
mùa đông lạnh đặc biệt ở phương Bắc.
Về tài nguyên, Lưỡng Hà hiếm đá quý và kim
loại, nhưng lại có đất sét rất tốt. Đất sét được dùng làm gạch sống, gạch
nung, gạch men và vách trộn rơm trong nhà dân gian, là nguyên liệu chính cho
ngành kiến trúc và là chất liệu để viết. Vật liệu kết dính là hồ vôi và bitum.
2.
Dân cư
Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume. Họ
từ Trung Á di cư đến miền Nam Lưỡng Hà vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN. Tại
đây, họ đã lập nên nhiều thành bang như Ua, Êridu, Lagat, Uruc...
Thiên niên kỷ III TCN, người Áccat, người
Amorit, một nhánh của tộc Xêmit đã lần lượt lập nên quốc gia Accat, quốc gia cổ
Babilon nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại.
Ngoài ra, nhiều tộc người khác xâm nhập Lưỡng
Hà, các tộc người đồng hóa với nhau làm cho thành phần cư dân ở đây phức tạp.
II. Các thời
kỳ lịch sử của Lưỡng Hà cổ đại
Lịch sử Lưỡng Hà
trải qua 5 nhà nước:
1. Những nhà
nước của người Xume
Khoảng đầu thiên kỉ III TCN, ở miển Nam Lưỡng
Hà, nơi cư trú của người Xume đã xảy ra những cuộc đấu tranh giành đất đai và
nguồn nước của các thành bang. Đến giữa thiên kỉ III, thành bang Umma ở phía
Bắc đã đánh bại Lagat, chinh phục nhiều thành bang khác và thống nhất miền Nam
Lưỡng Hà (gọi là vùng Xume)
2. Accat
Thành
bang Accat do một chi nhánh người Xêmit thành lập ở phía Bắc vùng Xume. Đến
thời vua Xacgon (2369-2314 TCN), Accat trở thành một quốc gia hùng mạnh, thống
nhất cả vùng Lưỡng Hà. Tiếp đó, Accat còn chiếm được các khu vực xung quanh
thành lập một quốc gia lớn mạnh ở Tây Á. Đến cuối thế kỉ XXIII TCN, Accat bị
người Guti ở Đông Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian dài.
3. Vương triều III của Ua (2132-2024 TCN)
Sau khi nguời Guti bị đánh đuổi, quyền thống
trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương triều III của Ua, một thành bang cổ xưa
của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều này cũng rất rộng. Bộ luật do Ua
ban bố được xem là cổ nhất trong lịch sử thế giới. Như vậy, dưới thời vương
triều III, Ua đã trở thành một nước lớn mạnh ở Lưỡng Hà, nhưng đến cuối thế kỉ
XXI TCN thì bị suy yếu và bị liên quân của Elam (một bộ tộc ở phía Đông) và
Mari (một thành bang ở phía Bắc) đánh bại.
4. Cổ Babilon
Vương quốc cổ Babilon được người Amorit thành
lập ở trung tâm Lưỡng Hà. Babilon trở thành quốc gia hùng mạnh, nổi tiếng nhất
trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại dưới thời vua Hammurabi (1792-1750 TCN). Ông đã
lần lượt đánh bại các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng
Hà, xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương. Đặc biệt, ông đã
ban hành bộ luật Hammurabi- một bộ luật cổ được giữ lại tương đối trọn vẹn.
Kinh tế Lưỡng Hà dưới thời Babilon có những
tiến bộ rất đáng kể. Công cụ đồng thau được dùng phổ biến, sắt đã xuất hiện
nhưng còn hiếm. Cư dân Lưỡng Hà đã biết sử dụng cày có lưỡi đồng thau do bò
kéo, cày có lắp bộ phận gieo hạt.
Như vậy, dưới thời vua Hammurabi, Babilon
không những được ổn định về chính trị mà kinh tế, văn hóa cũng rất phát triển.
Nhưng sau khi vua Hammurabi chết, vương triều bước vào thời kì khủng hoảng bởi
sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong cung đình và bởi cuộc tấn công
ồ ạt của các bộ lạc người phương Bắc. Cuối cùng vương quốc cổ Babilon bị tiêu
diệt.
5. Tân Babilon và Ba Tư
Sau khi vương quốc cổ Babilon sụp đổ, Lưỡng Hà liên tục bị ngoại tộc
xâm lược và thống trị. Tình trạng rối loạn đó kéo dài tới hơn 1000 năm. Năm 605
TCN, Babilon mới giành lại được độc lập, chấm dứt thời kì thống trị của đế quốc
Atxiri trong gần 300 năm.
Năm 626 TCN, người Chaldea
(một chi nhánh của bộ tộc Xêmit) đã xây dựng vương quốc và lại chọn Babilon làm
thủ đô, gọi là Tân Babilon. Vua nổi tiếng nhất của vương quốc Chaldea là
Nabuchodonosor (605-561 TCN) đã dùng vũ lực mở rộng lãnh thổ đánh chiếm Syria và Palestine .
Ông đã cho xây dựng lại Babilon thành một đô thành nguy nga đồ sộ, trung tâm
văn hóa và công thương nghiệp của Tây bộ châu Á hồi đó. Tại đây có “Vườn treo”
được xem là một trong những kì quan của thế giới cổ đại.
Mặc dầu chỉ tồn tại trong một khoảng thời
gian ngắn (605-539 TCN), vương quốc Tân Babilon vẫn kịp phát triển hưng thịnh.
Năm 539 TCN, nó lại bị người Ba Tư xâm lược, từ đó về sau không thể phục hồi
được nữa. Song những thành tựu văn minh của người Babilon vẫn còn để lại nhiều
dấu ấn trong lịch sử Lưỡng Hà.
B.
NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA
VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI
I.
Chữ viết
Mầm
mống của chữ viết ở Lưỡng Hà xuất hiện từ khá sớm.Chữ viết ở Lưỡng Hà đầu tiên
do người Xume sáng tạo vào đầu thiên niên kỉ thứ III TCN. Kể từ đó, Lưỡng Hà có
sự phát triển nhiều loại chữ viết khác nhau:
· Trong thời kì đầu, chữ viết của Lưỡng Hà cũng là
chữ tượng hình. Đầu tiên là những hình vẽ, về sau là những nét hợp lại thành ý.
Ví dụ như muốn viết các chữ chim, cá, lúa, nước thì vẽ hình con chim, con cá,
bông lúa, làn sóng. Dần dần, các hình vẽ được đơn giản hóa, từ vẽ toàn bộ sự
vật chuyển sang chỉ vẽ một bộ phận tiêu biểu mà thôi.
· Nhờ có chữ hài thanh, số
chữ tượng hình ngày càng ít đi. Người ta đã dùng hình để mượn âm thanh. Ví dụ,
muốn viết âm xum thì vẽ bó hành vì bó hành có âm là xum. Các hình vẽ chỉ âm
tiết còn kết hợp với một số hình khác để phân biệt với các khái niệm. Ví dụ,
hình bàn chân kết hợp với âm tiết NA là “đi”, với BA là “đứng”…
· Chữ tiết hình (chữ hình nêm) được viết trên các
tấm đất sét còn ướt và bằng những cái
que vót nhọn. Những nét trên đất sét chỉ là nét thẳng và ngắn, nét to ở chỗ mới
ấn vào, nét nhỏ ở chỗ rút bút ra, do đó giống hình cái nêm.
Rất
nhiều tộc người ở Tây Á thời cổ đại đã dùng loại chữ viết này để ghi lại tình
hình kinh tế, xã hội, diễn biến chính trị thời đó. Vì vậy, có thể coi chữ viết
do người Xume phát minh là thứ chữ mẹ đẻ của nhiều chữ viết khác của người
Áccat, Babilon, Atxiri, Ba Tư.
Các
học giả Grotephen người Đức (1802), nhà du lịch người Anh Rolinxon (1835) là
những người đã đặt nền móng cho việc đọc chữ tiết hình. Đến năm 1857, bốn độc
giả đã cùng đọc được một đoạn minh văn
chữ viết hình Atxiri. Từ đó cả kho tàng tư liệu của khu vực Lưỡng Hà thuộc các
lĩnh vực văn học, lịch sử, pháp luật,
kinh tế, khoa học…được dịch ra ngôn ngữ hiện đại. Năm 1957, khoa Atxiri học ra
đời.
II.
Văn học
Văn học Lưỡng
Hà gồm hai bộ phận chủ yếu là văn học dân gian và sử thi (anh hùng ca):
· Văn học dân gian gồm có cách ngôn, ca dao,
truyện ngụ ngôn… Loại văn học này thường phản ánh cuộc sống lao động của nhân
dân và cách cư xử ở đời. Loại văn học này thường là văn học truyền miệng; vì
vậy ngày nay ta biết được không nhiều.
· Sử thi ra đời từ thời Xume, đến thời Babilon
chiếm một vị trí rất quan trọng. Loại văn học này chịu ảnh hưởng của tôn giáo
rất mạnh. Chủ đề của nó thường là ca ngợi các thần. Thuộc về loại này có các
truyện như “Khai thiên lập địa”, “Nạn hồng thủy”, “Gingamet” là tương đối tiêu
biểu.
Ngoài
những nội dung trên, trong các tứ thơ, các tác phẩm còn phản ánh mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên. Đó là những cuộc đấu tranh quyết liệt trước sự tàn
phá của thác lũ, hạn hán và chống thú dữ để bảo vệ đời sống yên lành của cư dân
cổ Lưỡng Hà. Phản ánh cuộc đấu tranh của cư dân nông nghiệp chống lại những
dòng nước lũ của hai con sông Tigro và Ơphrat.
III. Tôn giáo
Người
Lưỡng Hà theo đa thần giáo. Họ thờ nhiều thần như: thần tự nhiên, thần động
vật, thần thực vật, linh hồn người chết…Vị trí các thần trước sau thường khác
nhau do trước đây có nhiều thành bang.
Trước tiên, họ tôn sùng những lực lượng tự
nhiên, coi đó là những lực lượng thống trị cuộc sống của mình. Người Uruc thờ
thần Anu, Eridu thờ thần Eaua, thần Lin... Ngoài các thần chủ, người Lưỡng Hà
còn tôn thờ nhiều thần khác. Họ thờ những vị thần có liên quan đến trồng trọt,
chăn nuôi và những hiện tượng thiên nhiên gắn liền với cuộc sống của con người:
thần Samat (thần Mặt Trời), thần Enlin (thần Đất), thần Istaro (thần Ái
tình)... Người ta tin rằng thần Mẹ (Inana) còn là thần bảo hộ nông nghiệp, thần
của sinh nở, thần Biển (Ea) còn dạy cho người ta biết nghề thủ công, nghệ
thuật...
Việc
thờ người chết cũng rất được coi trọng. Vì vậy người Lưỡng Hà rất chú ý đến lễ
mai táng. Họ quan niệm rằng con người sau khi chết cũng có cuộc sống giống như
ở trần thế, do đó, những người giàu khi mai táng thường chôn theo nô lệ, những
thứ quý giá, và được xây bằng lăng mộ lớn. Những người bình thường cũng được
liệm trong những quan tài bằng đất sét.
Tàn
dư của việc sùng bái các dã thú được biểu hiện ở việc thể hiện hình tượng các
thần như thần Mácđúc được biểu hiện biểu hiện bằng con quái vật nửa rắn nửa
chim dữ…
Cùng
với sự xác lập quyền lực tối cao trong toàn Lưỡng Hà của Hammurabi, thần Macduc
đã trở thành vị thần tối cao, bản thân nhà vua cũng được thần thánh hóa, thay
mặt cho thần Macduc cai trị muôn dân.
Do
sự phát triển của tôn giáo, tầng lớp thầy tu hình thành. Ở Babilon, tầng lớp
này chia thành 30 loại, trong đó thầy cúng đọc bùa chú và thầy cúng đoán tương
lai được trọng nhất.
IV.Nghệ thuật kiến trúc – điêu khắc
Cũng
giống như nền văn minh Ai Cập cổ, những thành tựu lớn nhất của nền văn minh
Lưỡng Hà cổ nằm trong lĩnh vực kiến trúc. Các công trình kiến trúc chủ yếu là
tháp, đền, miếu, cung điện, thành, vườn hoa. Vì thiếu đá, gỗ, các công trình
kiến trúc của Lưỡng Hà đều xây dựng bằng gạch nhưng cũng rất to lớn hùng vĩ.
Đầu
tiên phải kể đến công trình tiêu biểu vào loại sớm là tháp đền của thành bang
Ua xây dựng vào khoảng thế kỉ XXII TCN. Nổi bật là tháp đền Ziggurat (Mô phỏng
một Ziggurat)
Thành
tựu nổi bật nhất của Lưỡng Hà là hệ thống công trình gồm: thành quách, cung
điện, tháp, vườn hoa của Babilon, được xây dựng trong thời kỳ trị vì của
Nabuchodonosor – quốc vương Tân Babilon, sau này được coi là một trong bảy kì
quan của thế giới cổ đại.
Thành Babilon có chu
vi 16km, tường thành bằng gạch cao 30 m, dày 8,5m, có dấu tích 7 cửa và các
tháp canh. Thành phố được trang trí tỉ mỉ bằng phù điêu, tượng với các cánh cửa
thành bằng đồng vững chắc. Giữa các lớp tường thành có những hào nước bao quanh
để ngăn ngừa những cuộc xâm nhập của kẻ thù từ bên ngoài.
Tổng thể kiến trúc
Babilon kết hợp hài hòa với cảnh quan thiên nhiên làm tăng thêm vẻ thơ mộng,
trong đó có vườn treo Babilon. Tương truyền khu vườn treo Babilon – khu vườn thượng uyển độc đáo được
nhà vua xây để chiều ý vương hậu sủng ái của ông.
Toàn bộ vườn treo là một khuôn viên hình
vuông, khoảng 77 m cấu trúc kiểu dốc bậc có tầng hiên nọ đặt trên hiên kia,
được chia làm 4 tầng. Vườn được xây trên một quả đồi nhỏ, gồm bốn tầng, tầng nọ
cách tầng kia 25m, mỗi tầng là một vườn nối nhau bằng những cầu thang khá rộng.
Tầng
dưới cùng có diện tích là 60.516 m2, nằm trên một hệ thống cột gồm
625 cái. Hệ thống cột này càng lên cao càng thu hẹp dần, số lượng cột ít đi,
đến tầng 2 có 441 cột, tầng 3 có 289 cột, tầng trên cùng có 169 cột, kích thước
cũng nhỏ dần. Diện tích tầng trên cùng chỉ còn bằng nửa tầng dưới cùng. Toàn bộ
vườn treo giống như một chiếc tháp giật cấp rất phổ biến ở lưu vực Lưỡng Hà.
Nền của tầng
làm bằng đá tảng, mỗi viên dài 5 m, rộng 1,2 m, được phủ nhựa, sau đó lát gạch
và cuối cùng phủ một lớp chì, trên đổ một lớp đất màu mỡ. Người ta dùng những tảng đá to phẳng xây khít
để tạo nên những mặt bằng của thành. Kế đó người ta trải một lớp cói mỏng, nhựa
đường, tiếp đó xây một lớp với 2 hàng gạch được ghép lại với nhau chặt chẽ bằng
bột thạch anh, trên lớp gạch ấy là những tấm kim loại và trên cùng, người ta đổ
đất để trồng cây. Vườn treo bốn mùa cây cối xanh tươi. Đứng trên vườn treo ấy
có thể bao quát toàn cảnh thành Babilon lộng lẫy.
Vườn có đủ hoa
thơm, cỏ lạ, các loại cây quý hiếm được đưa về từ những vùng mà nhà vua đến xâm
lược. Trong vườn treo có một hệ thống đài phun nước gồm hai bánh xe lớn liên
kết với nhau bằng dây xích có gắn thùng gỗ. Khi bánh xe quay, dây xích và thùng
nước cũng chuyển động đưa nước ở một cái bể phía dưới lên trên cao tưới nước
cho cây.
Để tưới nước
cho hoa và cây của khu vườn, các nô lệ phải luân phiên nhau đưa nước từ dòng
sông Ơphrat lên khu vườn. Nước được lấy từ 3 giếng có máy thuỷ lực quay với hệ
thống gàu nước đưa lên cao chảy theo các rãnh thoai thoải tưới cho toàn khu
vườn. Do vườn làm theo hướng gió nên hương thơm lan toả cả một vùng rộng lớn.
Đền
tháp Ementelauki cũng là một loại hình kiến trúc độc đáo của Lưỡng Hà. Tháp cao
90 m, từ xa trông ngọn tháp 7 tầng như một cái thang khổng lồ vươn thẳng lên
trời. Tầng dưới cùng là một khối vuông cạnh 90m, cao 30m, gồm nhiều phòng và
được quét một lớp sơn màu đen. Tầng hai hẹp dần theo thế hình tháp sơn màu đỏ.
Tầng 3 màu trắng, tầng 4,5,6 màu đỏ và tầng 7 màu xanh, có những viền sáng chó,
tầng này có mái che và trang trí hình những chiếc sừng to khảm vàng cao vút ở 4
góc, tầng 7. Tầng 7 chính là một ngôi miếu nhỏ trong đó có tượng thần Macduc
bằng vàng.
Nghệ thuật điêu khắc gồm tượng và phù điêu. Những tác
phẩm tương đối tiêu biểu là “bia diều hâu”, “Cột đá Naramxin”, “Bia luật
Hammurabi”, các tượng thần Atxiri...Mặc dù cũng có một số tác phẩm điêu khắc
nhưng nhìn chung về mặt này ở Lưỡng Hà không nổi bật lắm.
V.Khoa học tự nhiên
1.
Toán học
Người Lưỡng Hà sáng tạo ra hệ đếm của mình gần như
củng lúc với người Ai Cập. Với người Lưỡng Hà, chữ số được biểu đạt theo cơ số
60 (hệ lục thập phân). Đây là hệ đếm tiến bộ nhất của họ. Trước đó, người Lưỡng
Hà đã sử dụng nhiều hệ thống đếm khác nhau, như hệ đếm lấy cơ số 5 làm cơ sở
của người Xume thời cổ. Có lẽ hệ đếm này bắt nguồn từ cách đếm số ngón tay.
Muốn đếm những số trên 5, người ta cộng 5 với những số khác. Ngoài ra, cũng còn
sử dụng hệ thống đếm lấy cơ số 10 làm cơ sở.
Với hệ đếm lấy 60 đơn vị, việc biểu đạt chữ số của
người Lưỡng Hà đã tiến thêm một bước vô cùng quan trọng, và đặc biệt đã có cách
ghi số theo vị trí, tùy vị trí đứng mà có trị số khác nhau. Hệ mới này tách
khỏi tất cả các cách đếm cổ truyền. Các con số đã giành được sự độc lập của
chúng.
Cho đến nay chúng ta vẫn sử
dụng cách tính giờ, tính độ (một vòng tròn có 360o ) theo
kiểu đếm sáu mươi bậc của người Lưỡng Hà.
Do nhu cầu đo
đạc ruộng đất sau mùa nước rút và nhu cầu tính toán để xây dựng nhà cửa, đào
kênh, đắp đất, cho nên hình học của người Lưỡng Hà cũng phát triển từ rất sớm.
Họ đã biết tính diện tích các hình chữ nhật, tam giác, hình thang, hình tròn.
Trước Pitago rất lâu, họ đã biết quan hệ giữa ba cạnh trong tam giác vuông. Họ
còn biết phân số, lũy thừa, căn số bậc 2, bậc 3, đồng thời còn biết lập bảng
căn số và biết giải phương trình có 3 ẩn số, biết dùng số pi =3 để tính diện
tích và chu vi hình tròn..
2.
Thiên văn học
Bầu trời Lưỡng
Hà trong sáng suốt 8 tháng trong một năm, người Lưỡng Hà rất quan tâm đến thiên
văn học, họ xây dựng nhiều đài chiêm tinh để quan sát bầu trời, vì vậy thiên
văn học có điều kiện để phát triển và có những thành tựu to lớn
Từ trên các
đỉnh núi cao cùa Zicgurat, người Babilon (Chaldea )
đã quan sát và phân biệt được các chòm sao. Họ cũng đã chia các thiên thể trên
bầu trời thành 12 cung, gọi là “12 cung hoàng đạo”.
Do quan sát tỉ
mỉ sự chuyển động của Mặt Trời và Mặt Trăng, các nhà thiên văn Babilon có thể
biết trước khi nào nhật thực hoặc nguyệt thực sẽ xảy ra.
Người Babilon
đã biết được 5 hành tinh của Thái dương hệ và gọi tên theo các vị thần của
mình: sao Mộc là Mardouk (thần Chúa tể), sao Kim là Isha (nữ thần Sắc đẹp), sao
Hỏa là Mejar (thần Chiến tranh), sao Thủy và sao Thổ được gọi bằng tên của hai
vị thần khác là Nemo và Nimip.
Việc làm chủ
thời gian gắn liền với việc làm ra lịch. Dựa vào sự quan sát thiên văn, từ thời
Xume, người Lưỡng Hà đã lập được hệ thống lịch theo Mặt trăng (âm lịch), một
năm có 12 tháng, xen kẽ một tháng có đủ 30 ngày, là một tháng thiếu- 29 ngày,
tổng cộng cả năm là 354 ngày. Như vậy so với năm mặt trời còn thiếu hơn 11
ngày. Dưới thời Hammurabi, sự sai lệch đó được bổ sung bằng việc tăng thêm
tháng nhuận do một đạo luật đặc biệt của Nhà nước quy định, về sau mới có chu
kì cố định. Để đo thời gian, người Lưỡng Hà dùng đồng hồ ánh nắng và đồng hồ
nước chảy.
Mặc dù có
nhiều thành tựu to lớn, nhưng thiên văn học còn bị những quan niệm tôn giáo chi
phối, nên còn bị xen lẫn với thuật chiêm tinh, bói toán.
3.
Y học
Về y học,
người Lưỡng Hà cũng đã đạt được những thành tựu rất to lớn. Các nhà khảo cổ học
đã tìm thấy 40 tấm bảng bằng đất ghi chép đầy đủ cách chữa trị các loại bệnh
khác nhau về tiêu hóa, hô hấp, thần kinh, đau mắt. Hình thành nhiều ngành như
nội khoa, ngoại khoa, giải phẫu.
Tuy vậy, do
trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển, những quan niệm mê tín, dị đoan hãy
còn phổ biến trong y học. Bên cạnh những cách chữa trị rất khoa học, họ còn
chữa trị bằng ma thuật, bùa chú và dùng những thứ như lưỡi chuột, mắt gà, đuôi
chó..đặc biệt là không được chữa bệnh vào các ngày xấu. Họ để vị thần bảo hộ y
học Ninghizita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y
vẫn coi là biểu tượng.
VI.Chế độ chính trị và luật pháp
Ngay từ khi
mới ra đời, Nhà nước của người Xume được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên
chế. Đến thời vương quốc Babilon thì hệ thống chính trị được hoàn thiện, đặc
biệt dưới thời vua Hammurabi.
Về mặt xã hội
Babilon thời Hammurabi được xây dựng trên cơ sở những gia đình phụ quyền, trong
đó quyền lực của người đàn ông – chủ gia đình là rất lớn.
Cùng với việc
tổ chức lại bộ máy Nhà nước, xây dựng quân đội, phát triển kinh tế, Hammurabi
đã khởi thảo bộ luật tương đối hoàn chỉnh để quản lý xã hội. Bộ luật Hammurabi
có 282 điều, được khắc trên tấm đá badan cao 2,25, rộng 2m. Đây là bộ luật
thành văn được coi là cổ nhất thế giới. Nội dung của bộ luật gồm 3 phần: phần
mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong phần mở đầu nêu rõ mục đích của việc
ban hành bộ luật để quy định sự hợp pháp trong nước.
Nội dung chủ yếu của bộ luật gồm những điểm
chính sau đây:
- Quy định hình phạt về các tội vu cáo, trộm
cắp, gây thương tích hay làm chết người và những hành vi gây rối loạn trong xã
hội.
- Quy định về quyền lợi của những người đóng
góp nghĩa vụ quân sự, trong đó để cập tới tù binh, hoặc nguời không hoàn thành
nghĩa vụ trong quân đội.
- Quy định của việc thu sản phẩm của các thành
phần cư dân trong xã hội, trong đó chú trọng đến những người canh tác ruộng đất
công.
- Quy định về việc vay nợ và không trả được
nợ.
- Quy định về việc buôn bán.
- Quy định về hôn nhân và gia đình, trong đó
nói tới quyền thừa kế tài sản,
Ngoài ra, có những điều quy định
về xử phạt, mức trả công cho người chữa bệnh, thuê mướn...
Trong phần kết luận, Hammurabi đề cao công
lao của mình trước nhân dân, kêu gọi đền ơn những ông vua kế tục và thực hiện
những điều luật của Hammurabi.
Bộ luật phản
ánh các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của vương quốc Babilon
thời đó. Bộ luật không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lí mà còn là nguồn tư liệu
quý, phong phú cho người đời sau biết được những giá trị vật chất và tinh thần
thời đó.
KẾT LUẬN
Tóm lại, khu vực Lưỡng Hà đã bước
vào xã hội văn minh rất sớm và đã đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hóa.
Tuy nền văn minh này đã biến mất nhưng những thành tựu văn hóa ấy, nhất là về
các mặt như chữ viết, văn học, toán học, thiên văn đã để lại giá trị vô cùng to
lớn và có ảnh hưởng quan trọng đối với văn minh khu vực và thế giới.
Nguồn: internet
Nhận xét
Đăng nhận xét