Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ II
sau Công Nguyên. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm
và lâu dài. Trong quá trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo,
đã có nhiều đóng góp cho văn hoá Việt Nam.
Cũng giống như tôn giáo ngoại sinh khác như
nho giáo, Đạo giáo, islam giáo, Công giáo hay tin Đạo lành, Phật giáo khi du nhập
vào Việt Nam đã có những va chạm nhất định với văn hoá bản địa, hình thành cục
diện hội nhập khác với sự tiến hoá tự nhiên của một hệ tư tưởng bản địa. Quá
trình hội nhập đó dẫn tới sự hình thành những yếu tố văn hoá mới.
Mỗi tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có những
đóng góp nhất định về văn hoá. Phật giáo cũng không nằm ngoài quy luật này.
Trong khuân khổ của chuyên đề này em xin đề cập tới một số ảnh hưởng cơ bản của
một vài lĩnh vưc mà thôi.
1. Phật giáo đã góp phần đào tạo một tầng lớp trí thức.
Tầng lớp trí thức đầu tiên mà Phật đã đào tạo
mang tính chất nhà sư am hiểu nho giáo. Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông
Việt đại sư là một nhân vật tiêu biểu.
Khi người Hán đến cai trị nướca ta thì họ mang
chư Hán đến. Nhưng khi đến vùng đất này, người Hán chủ trương không mở trường
đào tạo trí thức người Việt mà chủ yếu đưa người Hán sang làm quan cai trị. Do
vậy, Suốt từ năm …..trước Công Nguyên cho đến thời kỳ đầu Công Nguyên chỉ có một
Trương Trọng và mãi mới có vài ngươì như Lý Cầm, Lý Tiến để học hành để đấu
tranh làm quan. Một số khác như Tích Quan Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp tuy có dạy hoc
nhưng đều không có dấu hiệu phổ cập chữ Hán, biểu thị cụ thể nhất là không thấy
xuất hiện một giai tầng lớp trí thức Việt trước thế kỷ thứ VII.
Tầng lớp trí thức Việt dầu tiên là trí thức Phật
giáo. Người đầu tiên để lại tên tuổi là Pháp Hiền (? – 626). Phật giáo truyền
vào Dầu cuối thế kỷ thứ II, hình thành trung tâm Dâu mà Pháp Hiền là nhà sư Việt
đầu tien lưu tên trong sơn môn. Vấn đề đặt ra là, người ta truyền bá và phát
triển đạo Phật bằng ngôn ngữ và văn tự gì trong thời kỳ đầu? Nhà sư ấn Độ Tì Ni
Đa Lưu Chi từ Trung Quốc đến Dâu năm 580 trụ trì ở đó, dịch một quyển kinh Tổng
Trì. Ông ta đến Trung Quốc năm 562 (hay 574), gặp lúc các Phật giáo đang bị đàn
áp, Tăng Xán đang trốn tránh nên khuyên ông xuống phương Nam. Ông đến chùa Chế
Chí ở lại 6 năm dịch hai bộ kinh. Như vậy ông dã học đươc văn tự Hán. Cho nên
khi đến Dâu, ông đã dùng ngôn ngữ và văn tự đó đẻ truyền bá Phật giáo.
Thế kỷ VII – VIII, tăng sĩ Việt Nam có nhiều
người có trí thức uyên thâm về Phật giáo. Nhiều người giỏi cả Phạn ngữ, đã tham
gia giải kinh Phật. Như trước đó, thế kỷ thứ III, tư liệu để lại cho biết về Đạo
Thanh, một người Việt giúp nhà sư ấn Độ dịch Pháp Hoa Tam Muội Kinh ở nước ta
khoảng năm 255 – 256.
Tuy nhiên do chính sách nô dịch hà khắc và việc
hạn chế đào tạo người Việt trở thành trí thức, chính quyền đô hộ Hán - Đường đã
gián tiếp hun đúc các thiền sư Việt Nam ý thức về một nền độc lập dân tộc. Những
nhà sư Phật giáo dã là tầng lớp trí thức trụ cột cho những chính quyền độc lập
đầu tiên như các nhà tiền Lê - Lý – Trần.
Lê Đại Hành khi lên ngôi Vua đã mời Thiền sư
Pháp Thuận và Thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi vào triều đình
làm cố vấn chính trị. Thiền sư Vạn Hạnh là người huyền thoại hoá Lý Công Uốn và
đưa ông lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của thời Lý. Lý công Uốn là con nhà
sư Lý khánh Vân, ra dời trong một chuyến lên chùa của mẹ ông. Lý Công Uẩn học ở
chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh đã tuyên truyền cho ông, đã khen ông sẽ làm bậc
minh chủ. Các tư liệu dù đã thuyền hoại hoá nhung vẫn thấy Lý Công Uốn xuất
thân đào tạo trong Phật giáo đưa lên ngôi báu.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội
thời Lý Trần được coi như một quốc giáo. Thời Ly Trần có rất nhiều nhà sư nổi
tiếng trong cả nước, có uy tín và đìa vị chính trị xã hội. Có thể kể đến các
nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền
Quang.
Nhà nước Ly ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối
cảnh của sự khoan dung, hoà hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự
kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật
thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước, là đối trọng tư
tưởng của Nho giáo.
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng nho giáo thời
Ly Trần có xu hướng phát triển ngược lại với Phật giáo, Nho giáo đã đào tạo một
tầng lớp trí thức để làm quan. Nho giáo từ chỗ lúc đầu mới chỉ được nhà nước
phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc như một học thuyết để trị nước tới chỗ sau
đó (cuối thời Trần) đã trở thành một ý thức hệ trên đà thống trị xã hội.
Nho giáo truyền vào Việt Nam từ đầu thời Bắc
thuộc dưới một phương thức giao lưu văn hoá cưỡng chế. Vì vậy, sau hơn 1.000
năm đô hộ của chính quyền phương Bắc, Nho giáo cũng chỉ là một lớp váng mỏng đọng
lại trong tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng rất nhỏ bé. Đến thời Ly Trần, nho giáo trở
thành một nhu cầu tư tưởng thiêt yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập
quyền, cũnh như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện
pháp chiến lươc là chế độ khoa cử. Do vậy các nhà vua sùng Phật vẫn cần đến một
sự bộ trợ của Nho giáo. Thời Ly-Trần Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn
giữ một vị trí khá khiêm tốn. Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng thờ Chu Công, Khổng
Tử và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học Hoàng Thái Tử học sinh đầu tiên, người
đỗ đầu là Lê Văn Thịnh, năm 1076 mở trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1086 triều
đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời
Trần Nho giáo và Nho học khởi sắc hơn. Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển,
trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hải, Nguyễn Trung
Ngạn… Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ
dùng cho tầng lớp quý tộc tông thất. Đoàn Nhữ Hải từ một nho sinh được thăng đến
chức Hành khiển là một ví dụ tiêu biểu.
Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo ra
một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc
và ủng hộ cho nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ
Hán Nho giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô
hộ.
2.Đóng góp của Phât giáo về mặt văn tự.
Như trên đã đề cập các nhà sư Â’n Độ và Trung
Quốc đến Việt Nam và dịch kinh sách bằng văn tự Hán và ngôn ngữ, văn tự đó được
dùng để truyền bá Phật giáo.
Một vấn đè được đặt ra là trước thế kỷ thứ VI
Phật giáo hoạt động ở trung tâm Dâu bằng ngôn ngữ và văn tự nào?
Chúng ta biết rằng miền trung và miền Nam nước
Việt, vào thời diểm đó nơi này là các vương quốc Chămpa và Phù Nam. Các thương
nhân và nhà truyền giáo Â’n Độ đều đã đến đây có thể cùng một lúc hay sơm hơn
thời gian họ đến Dâu. Nhứng nhà truyền giáo đó đã dùng ngôn ngữ và văn tự nào để
truyền giáo? Câu trả lời rõ ràng và cụ thể là: văn tự sanscrit. Bi kí và minh
văn thuộc niên đại khoảng đầu Công Nguyên đã được phát hiện trước năm 1945 và
hiện nay vẫn còn đang được phát hiện chứng minh diều đó một cách hùng hồn. Như
vậy là do người truyền giáo Â’n Độ không gặp ở nam Đại Việt lúc bấy giờ một văn
tự nào sẵn có để họ sử dụng, vì vậy họ sử dụng văn tự sanscrit để truyền giáo.
Còn ngôn ngữ thì đã có sẵn cho nên chẳng bao lâu sau thì xuất hiện chữ Chăm, chữ
Khmer trên cơ sở chữ sanscrit.
Còn ở phía bắc thì cho đến nay không còn tìm
thấy dấu vết chữ sanscrit thời đó. Để giải thích hiện tượng này chúng ta nhìn lại
lên phía bắc. Khi những nhà truyền giáo Tây Vực hay Ấn Độ đến kinh đô Trung Quốc
thời Hán thì họ đều dịch kinh bằng cách này hay cách khác. Hoặc họ đọc các kinh
bản qua người Trung Quốc biết ngoại ngữ phiên dịch, hoặc tự tay họ dịch sau khi
họ học chữ và tiếng Trung Quốc. Cho nên ở Trung Quốc không hình thành một dạng
văn tự sanscrit mà trái lại hình thành một loại văn tự sanscrit chữ Hán, tức là
chữ ngang thì chuyển thành chữ ô vuông nghĩa là bị cắt ra từng đoạn hình thành
chữ Phạm – Hán mà ngay nay chúng ta vẫn thấy đề trên cổng chùa hay khắc trên
chuông… và ghi trên kinh chữ Hán thường ở phần chú(thần chú).
Như vậy, nếu Phật giáo Ấn Độ truyền đến một
khu vực chưa có văn tự Â’n Độ sẽ địa phương hoá sản sinh ra một văn tự địa
phương thuộc hệ văn tự Â’n Độ. Nếu đến nơi đã có văn tự thì nó biến dạng thành
một chủng loại mà tính trội thuộc về văn tự bản địa.
Nói một cách cụ thể hơn, Nam Đại Việt đã thừa
hưởng của Bàlamôn giáo loại văn tự mà họ chưa có, nghĩa là bàlamôn giáo, phật
giáo đem đến cho cư dân đó một loại văn tự. Đó là một cống hiến của Bàlamôn
giáo và Phật giáo đối với miền nam nước ta. Còn bắc Đại Việt thì người truyền
giáo Â’n Độ đã gặp ở đây một văn tự ngoại quốc nhưng quan phương, cho nên họ
dùng loại văn tự đó – văn tự Hán. Nhưng cũng không phải họ không có cống hiến
gì. Có hai cống hiến, sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến chữ
Hán đã đưa đến sự hình thành chữ Nôm. Chúng tôi cho rằng, chữ Nôm đã hình thành
trước thế kỷ V – VI. Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ Phật giáo đồng
nghĩa: Bụt – Chùa – Thầy và Phật – Tự – Sư. Nhóm thứ nhất là chữ Nôm, nhóm thứ
hai là chữ Hán đọc theo âm Việt, hiện nay quen gọi là âm Hán – Việt chứ không
phải là âm Hán của chữ Việt. Chữ Nôm xuát hiện trong bộ thuạt ngữ Phật giáo này
sẽ không bao giờ sản sinh và tồn tại được nếu như bộ thuật ngữ Việt Hán đã được
dùng từ đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu truyền bá Phật giáo. Nhưng bởi vì trước thế
kỷ V – VI, Phật giáo Trung Quốc chưa hình thành. Công việc Phật giáo ở Trung Quốc
chủ yếu vẫn do các nhà sư Tây Vực đảm nhiệm. Trong khi đó ở Dâu đã hình thành một
trung tâm Phật giáo độc lập đối với Phật giáo Trung Quốc lúc bấy giờ con loanh
quanh ở phương bắc xung quanh triều đình chưa lan xuống vùng Giang Đông, tức miền
Nam. Sau này Phật giáo Trung Quốc vẫn hình thành Bắc tông và Nam tông là có lý
do lịch sử của nó. Chỉ đến khoảng thế kỷ V – VI, một mặt Phật giáo Trung Quốc
đã hình thành những Tông phái Trung Quốc như Thiên Thai, Pháp Tướng….Một mặt
con đường thỉnh kinh cũng chuyển sang phương nam. Các nhà sư Trung Quốc xuống
giao Châu đi đường thuỷ qua Â’n Độ. Nhà sư hành hương nổi tiếng là Nghĩa Tịnh
đã đi theo con đường này, cũng có một số nhà sư người Việt như Khuy Sung, Đại
Thặng Đăng đã học giỏi tiếng Phạm và hoặc đi một mình hoặc đi cùng các nhà sư
Trung Quốc sang Â’n Độ.
Những nhà sư này đều không có tên trong Thiền
Uyển Tập Anh Ngữ Lục. Tất cả điều đó chứng tỏ có một cơ tầng Phật giáo Việt ấn
tồn tại trước sau đó rồi mới đến thượng tầng Việt Trung, bắt đầu từ khoảng thế
kỷ V – VI về sau và rõ net với Ngô Ngôn Thông (đến Kiến Sơ làng Phù Đổng năm
820) thì Phật giáo Trung Quốc mới chiếm thượng phong. Cho nên, trong thời kỳ
trước mới hình thành và tồn tại các thuật ngữ Phật giấo Â’n Độ, Bụt – Chùa – Thầy
được hình thành như vậy. Thời kỳ sau bộ thuật ngữ Phật giáo Trung Quốc đọc theo
âm Hán Việt là Phật – Sư - Tự mới phổ biến. Nhưng đến nay dân gian vẫn quên gọi
thầy chùa hơn là Sư ông. Chính Phật giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nôm ở
bắc Đại Việt, chữ Chăm, chữ khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn
ngôn ngữ Việt Chăm, Khmer.
3.Phật giáo ảnh hưởng đên một nền kiến trúc
chùa, tháp phong phú.
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về
kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự
phát triển của nó đánh dấu bước tiến của văn minh.
Khởi thuỷ nơi trú ẩn đầu tiên của con người là
ngôi nhà tự nhiên. Đó chính là những hang động những vòm đá. Tuy nhiên ngôi nhà
tự nhiên này không thể che chở an toàn cho con người với bao như thứ hiểm hoạ
chết chóc. Nào mưa gió sâm sét, nào hổ báo, răn rết… tất cả đều là những mối
nguy hiển đối với cuộc sống con người. Bản thân con người là một miếng mồi ngon
đối với những ác thú trong tự nhiên. Con người là một con mồi yếu đuối nhất
nhưng lại là con mồi có trí khôn. Một sự miêu tả cực kỳ sinh động về trí khôn của
con người trong cổ tích Việt Nam – chuyện Trí khôn của ta đây – giữa con hổ và
con người. Đây thực sự là một minh họa xuất sắc nhất cho sự khác biệt cơ bản giữa
con người và động vật.
Để chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc sống,
con người phải làm nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu người
Việt làm nhà sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn hay
nhà đất thì cho đến trước năm 1945, những ngôi nhà tranh tre của người Việt vẫn
còn tồn tại như nguyên mẫu xa xưa. Đó là một ngôi nhà hình chữ nhật thông thường
chia làm 3 gian với chiều dài từ 6 – 10 mét, đôi khi có nối các chái. Đó là những
ngôi nhà tranh lè tè mái rạ vàng rộm. Những ngôi nhà nông thôn có một mầu như vậy.
Đền thờ nhà là gốc đa, và về sau đã có nghè thì cũng chỉ là ngôi nhà hai ba
gian đơn sơ như nhà ở. Thế nhưng, một khi Phật giáo du nhập vào thì hai loại
hình kiến trúc mới đã xuất hiện đó là chùa và tháp.
Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên
đại muộn hơn buổi đầuPhật giáo it nhiều, thì xóm làng vẫn còn là một quần thể
nhà tranh. Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi
quần tụ văn hoá. Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi xem múa rối nước
cũng đều ở tại chùa. Ngày nay chợ Dâu vẫn còn họp trước chùa Dâu (Bắc Ninh).
Sân khấu rối nước vẫn còn ở chùa Thầy (Hà Tây) với chú tễu và con rồng, là những
hình tượng Phật giáo. Dân làng dù nghèo đói đến đâu vẫn chung nhau dựng cho được
một ngôi chùa khang trang. Nếu chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới. Phật
điệu nhiều bậc bệ cao dần lên tượng trưng núi Tu Di mà người nông dân Việt Nam
không biết. Những chư vị Phật ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao là một
cách bài trí hoàn toàn khác bàn thờ trong nghè, trong nhà của họ.
Cảnh quan xóm làng nông thôn đổi sắc với sự xuất
hiện của ngôi chùa. Chùa cao ráo hoặc mái rạ hoặc mái ngói với cây tháp gạch (một
cây, hai cây hoặc cả một vườn tháp) nổi bật lên giữa một quần thể nhà tranh
vách đất.
Chùa Việt không hoàn toàn giống như chùa Trung
Quốc. Chùa Trung Quốc là kiến trúc viên lạc gồm nhiều kiến trúc song song với
những chiếc sân ngăn cách. Ngôi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là
Chuyết Chuyết và Minh Hành xây dựng là chùa Bút Tháp, ở đó mang dấu ấn viện lạc
trong bình đồ khá đậm nét.
Buổi đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang Â’n Độ
cho nên hình thành kiến trúc chuôi vồ rất phổ biến trong các chùa làng. Chùa
Â’n Độ là mô hình một hang đá gồm có tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng
Phật và một số tăng phòng xung quanh. Chuyển sang kiến trúc gỗ thì ngôi nhà ba
gian được nối thêm một chuôi vồ, còn các thiền phòng thành những hành lang và
nhà Tổ. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mô hình này như chùa
Hồng Phúc (chùa Hoè Nhai), chùa Liên Phái, Chùa Linh Quang…
Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc
mới: chùa chữ “công”. Có thể thấy chùa Diên ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng
kiến trúc này thường thấy có tường bao quanh và trở thành kiểu nội công ngoại
quốc như chùa Chiêu Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông thường loại hình kiến
trúc này của chùa thuộc loại hình chùa quy mô lớn.
Chùa chữ “Tam” là một kiến trúc khác của chùa
Việt có ảnh hưởng của chế độ viện lạc Trung Quốc, như chùa Thiên Phúc (chùa Thầy),
chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương) ở Hà Tây, chùa một cột ở Hà Nội.
Trong những ngôi chùa trên, thì chùa Một Cột
(chùa Diên Hựu – kéo dài tuổi thọ) được xây dựng năm1049, là một sản phẩm tiêu
biểu không thể không đề cập. Buổi khởi dựng của chùa có kiến trúc hình ảnh một
bông sen khổng lồ nở trên mặt nước. Đó là sáng tạo của các nhà kiến trúc giữa
thế kỷ XI, theo ý tưởng giấc mơ của vua Lý Thái Tông về một bông sen. Năm 1080,
vua Lý cho đúc một quả chuông lớn, đánh không kêu, cho là đã thành khí nên
không thiêu huỷ, mới đem để ở ruộng chùa. Ruộng ẩm có nhiều rùa chui vào làm tổ
nên gọi là chuông Quy Điền cùng với vạc chùa Phổ Minh, tượng phật chùa Quỳnh
Lâm và tháp chùa báo Thiên hợp thành “tứ đại khí” nổi tiếng, là thành tựu về
nghệ thuật và kỹ thuật các thời Lý – Trần. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho đào hồ
ở quanh cột đá có toà sen, gọi là hồ Linh Chiểu. Bên ngoài có hồ Bích Trì. Ngôi
chùa thời Lý được xây dựng lại ở thời Trần vào năm 1249 và các đời sau thường
tu sửa. Năm 1954, chùa được xây dựng lại với quy mô kiểu dáng như ngày nay.
Chùa Một Cột được coi là biểu tượng của thủ đô
nghìn năm văn hiến, là một danh thắng nổi tiếng mà ai đã từng đến Hà Nội không
thể không ghé qua. Từ góc độ khoa học, đã có ý kiến cho rằng, chùa Một Cột
chính là một loại hình điện thờ tư nhân sớm nhất được xây dựng cho một cá nhân
cụ thể – vua ly Thái Tông.
Ngày nay, do mô hình kiến trúc đã hiện đại hoá
xuất hiẹn chùa dạng nhà lầu với phác đồ theo chiều thẳng đứng: tầng dưới là nơi
thuyết pháp cho tín đồ mang tính chất Tiền đường, tầng trên là Phật Điện mang
tính chất Thiêu Hương, Thượng Điện. Chùa thuộc loại này có thể kể tới những
ngôi chùa nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh như chùa Xa Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm.
Chùa Khmer lại thuộc một mô hình khác. Mô hình
chùa loại này thông thường là một tứ giác có nhiều tầng bậc chỉ thờ một tượng
Thích Ca. Trên các thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất đặc sắc
với hai apxara hai bên góc như chùa Svay Ton (chùa Xà Tón) ở An Giang, gợi cho
người ta liên tưởng tới dáng dấp cổng tháp Sanchi nổi tiếng ở ấn Độ.
Chùa ở Nam bộ lại có kiến trúc kiểu nhà tứ trụ.
Đó là kiểu kiến trúc nhà rường. Bốn cột cách đều nhau ở bốn góc một diện tích
hình vuông, từ bốn cột cái các kèo đấm và kèo quyết đưa đều ra bốn hướng. Hình
vuông được giải thích đó là một kiểu thức của một ngôi tháp hoặc bắt chước dịch
lý gọi là kiểu nhà tứ tượng: Thái Âm – Thiếu Dương – Thái Dương – Thiếu Âm, Pha
màu sắc phong thuỷ, ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo. Chùa ở Nam Bộ, từ đầu
thế kỷ XX đến nay, đã có nhiều cách tân, do vậy chưa định hình được một mẫu mực
nhất định.
Chùa ở vùng Huế bắt đầu được xây dựng từ thời
chúa Nguyễn Hoàng và phát triển mạnh ở thời các vua Nguyễn. Chùa ở đây chủ yếu
được xây dựng, tu bổ, tôn tạo dưới sự bảo trợ của triều đình và hoàng gia. Về
cơ bản, những ngôi chùa ở đây có pha nét kiến trúc cung đình. Có thể kể đến những
ngôi chùa nổi tiếng của vùng đất này như chùa Thiên Mụ, chùa quốc Ân, chùa Báo
Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Từ Đàm,….
Trên đây ta nói đến là kiến trúc chùa. Còn kiến
trúc tháp thì sao?
Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến
trúc thấp cũng cực kỳ phong phú. Phật tử cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi
của chùa Báo Thiên vòi vọi, tháp Sùng Thiện Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối,
chùa tháp Chương Sơn với net kiến trúc đặc trưng của hai tay vịn vũ nữ tạc theo
tư thế tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt.
Không thể nói đến kiến trúc chùa, tháp với những
tên tuổi nổi tiếng mà không thể đề cập đến một hệ thống tượng Phật vô cùng
phong phú trong đóng góp về vật chất của Phật giáo ở Việt Nam. Nói đến chùa
tháp là nói đến Tam Thế, Tam Thân, những pho tượng Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù,
những pho Di Lặc, Đại Diệu Tường, Pháp Hoa Lâm; A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí; Tuyết Sơn, Ca Diếp, A Nan; những bộ tượng Cửu Long, tượng Quán Thế Âm
Thiên Thủ Thiên Nhãn; tượng phật bát La Hán; tượng thập điện Diêm Vương; tượng
Hộ Pháp. Ngoài các tượng Phật còn có các tượng Tổ hay tượng Hậu. Phật điển
trong mỗi vùng, mỗi ngôi chùa cụ thể khác nhau hoàn toàn. Tuy nhiên có thể thấy
rằng, Phật giáo đã để lại những pho tượng đẹp nổi tiếng như tượng Quán Thế Âm
Thiên Thủ Thiên Nhãn (ở Phú Thị, Khoái Châu, Hưng Yên; Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc
Ninh) đã được đánh giá là “pho tượng đẹp nhất trên phật điện”, tượng A Di Dà
chùa Phật Tích, tượng Tuyết Sơn chùa Tây Phương (Hà Tây) đã đi vào thơ ca, văn
học,v.v…và v.v…Bên cạnh đó, chùa Việt còn để lại những pho tượng đồng vang tiếng
như hai pho tượng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam), đã trở thành kiệt tác trong
làng tượng Phật Việt Nam. Một vài thập niên trở lại đây, du khác cũng như Phật
tử khi đến Miền Nam còn nhìn thấy những pho tượng Phật và tượng Quán Thế Âm
kích thước đồ sộ bằng thạch cao hay xi măng côt thép được đặt trên những cao điểm,
từ xa đã có thể trông thấy.
Nói đến chùa còn phải nói đến Phật điện với những
trang trí nghệ thuật trên các chất liệu gỗ, đá, tạo nên những y môn, đồ khí tự,
kiệu vàng, cuốn thư, đại tự… Bia đá, câu đối và thậm chí tháp mộ trong nhiều
chùa đã để lại những dấu ấn mĩ thuật đặc thù.
Kiến trúc chùa phật ở Việt Nam còn là kiến
trúc sinh thái, hoà hợp cùng thiên nhiên. Những ngôi chùa trở thành danh lam thắng
cảnh nổi tiếng được xây dựng trên những núi non, sông nước kỳ vĩ. Hệ thống quần
thể chùa Hương, Yên Tử, Tây Phương, chùa Thầy, chùa Chấn Quốc, chùa Non Nước
v.v… là ngôi chùa được ẩn hiện trong môi trường thiên nhiên với những cây đại
thụ, những hương hoa cùng chim chóc càng làm tăng thêm sự linh thiêng của không
gian nơi đất Phật.
Đó là một vài đóng góp về văn hoá vật thể của
Phật giáo.
Còn về mặt văn hoá phi vật thể, cụ thể về mặt
tư tưởng, Phật giáo đã có những ảnh hưởng gì đến văn hoá Việt Nam?
3. Những ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam đó là mang đậm tính dân gian với tư tưởng từ bi cứu khổ cứu nạn.
Có thể nhận thấy, người Việt nảy sinh tư duy
trừu tượng về phồn thực với hình thức ma thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo
tín ngưỡng nguyên thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các hình vễ được khắc
trên thân trống đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động vật như trâu, bò
để chứng minh cho luận thuyết: Người Việt khi đó đã có quan niệm về vũ trụ quan
với 3 thế giới: Trời - Đất – Nước. Điều đó cho thấy, tư duy củ người Việt đã nhận
thức được sự vận động vòng tròn để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ dàng
thuyết luôn hồi của Phật giáo.
Phật giáo với lý luận nhân quả, rõ ràng là cao
siêu hơn ma thuật nhưng cũng không phải hoàn toàn xa lạ với người Việt. Ma thuật
đã chứng minh nhân nào quả ấy nhưng Từ Bi mới là tư tưởng chính của Phật giáo
được đưa vào hệ tư tưởng Việt.
Tư tưởng Từ Bi của phật giáo thấm đẫm trong
tâm hồn Việt từ người bình dân đến kẻ trí thức, thể hiện trong truyện kể dân
gian cũng như trong thơ văn bác học.
Trong truyện kể dân gian, bao giờ Phật cũng hiện
lên để cứu khổ, cứu nạn cho con người. Lấy chuyện Tấm Cám làm ví dụ. Phật đã hiện
lên giúp cho Tấm con cá bống, sai chim tới nhặt thóc, cho áo quần, giầy dép để
đi chơi hội, lấy hoàng tử. Mỗi lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc
là bụi trúc đào khi là quả thị. Chuyện kể thấm đẫm tinh thần cứu khổ, cứu nạn của
phật giáo với hình ảnh ông bụt đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh.
Một câu chuyện khác ở vở chèo Quan Âm Thị Kính
nổi tiếng vì lời hay múa đẹp, vì nỗi oan tình được cửa Từ Bi cứu vớt mà không
minh được oan. Câu chuyện Phật giáo triều tiên đó phù hợp với người Việt Nam đến
nỗi không mấy ai nhớ đó là câu chuyện của Triều Tiên. Bởi lẽ, tư tưởng Từ Bi
Bác ái của nhà Phật đã được diễn đạt hết sức dân gian, hết sức Việt Nam và có lẽ
Việt Nam hơn Truyện Kiều. Một điều đáng nói ở đây là câu chuyện Quan Âm Thị
Kính được thể hiện bằng chèo, một hình thức nghệ thuật dân gian hơn cả văn thơ
lục bát vốn cũng mang đậm tính dân gian.
Phật giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một
làn gió mát Từ Bi. Chất Từ Bi của nhà Phật thấm sâu không những trong những nghệ
sĩ dân gian vô danh mà còn đi sâu vào lòng những người dân bình dị. Đó là độ thấm
sâu của tư tưởng Phật giáo vào văn hoá Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng
Tứ Diệu Đế của Phật giáo.
Phật giáo vào Việt Nam mang đậm tinh dân gian
đến nỗi những người dân mặc dù theo Phật giáo nhưng ít có hiểu biết về phật.
Phật giáo có ảnh hưởng với văn hoá Việt Nam trong
suốt triều dài lịch sử đất nước. Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác nhân tác
động mạnh trong xã hội. Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến cho người
Việt những ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng làm tăng
lòng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một trung
tâm văn hoá làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong tâm hồn
người Việt một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay. Trong lịch
sử, Phật giáo cũng luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Đến thế kỷ XX Phật
giáo với những nhà sư Tây học đã đóng góp một phần nhỏ trong sự thành công của
cách mạng, mở ra một nước Việt Nam độc lập. Chỉ những nhà sư và tín đồ đi theo
cách mạng mới có tác động tích cực hơn.
4.Những ảnh hưởng của Phật giáo đến tư duy của người Việt Nam.
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai
yếu tố tôn giáo và triết học luôn hoà quện vào nhau làm cơ sở luận chứng cho
nhau.ở đây chung ta lưu ý đến yếu tố triết học về mặt này Phật giáo đã có ảnh
hưởng lớn tới tư duy của người Việt Nam trong đó có những giá trị và nhiều hạn
chế nhất định.
Tiếp thu phật giáo tư duy người Việt Nam có
thêm một số khái niệm và phạm trù nói nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của
triết học.Trong thế giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì
Phật giáo là có ý nghĩa nhiều nhất.
Hơn tất cả các học thuyết khác của phương
đông,Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người,đó là sinh ,lão,
bệnh ,tử.Bốn chặng đó của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người
mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm
chí sống lạc quan bình thản trước cái chết.Nhiều nhà sư trong Lý – Trần đã có
qua niệm như thế.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn:sắc ,thụ,
tưởng ,thành, thức là những vấn đề có ý thức luận sâu xa.Tuy đối tượng đó là
tâm và tính chất là duy tâm nhưng trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá
trình nhận thức hợp lý;Từ sự vật khánh quan(Sắc),Con người cảm thụ được(Thụ),Suy
nghĩ(Tưởng),Rồi đem hiện (Hành), và cuối cùng là biết(Thức).Ở đây nếu đem bóc
cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những
qua niêm biện chứng với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy phật giáo
nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi liên tục không có gì là trụ lại mãi,
không có ai là tồn tại mãi.Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy cái biến đổi mà không
nhìn thấy cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận dộng mà không thấy được
của cái hình thức vận động sẽ đi đến chiều hướng bi quan buông xuôi nhưng mặt
khác phải thấy nhận thức được như vậy là cũng có chiều sâu, là thấy được phương
diện cơ bản của sự phát triển sự vật.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối
quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem
kết quả này là nguyên nhân từ kết quả khác trong mỗi qua hệ khác.
Trên đây là những vấn đề mà phật giáo đã ảnh
hưởng đến tư duy Việt Nam góp phần làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong
thế giới quan của người Viêt Nam.
Tuy vậy Phật giáo cũng có nhứng hạn chế, ảnh
hưởng tiêu cực nhất định đế tư duy của người việt nam chúng ta.
Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không
thấy xã hội con người, chỉ thấy cong người nói chung mà không thấy con người của
giai cấp đối kháng nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong
gia cấp xã hội,do đó không thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy
được sự cần thiết phải chống áp bức, bóc lột vì thế qua niêm từ bi bác ái trong
một số trường hợp bất lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì
thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính trị-xã hội phải sử dụng các tư
tương Nho hay Lão Trang.Nhà sư Viễn Thông cho rằng``Lòng dân là gốc trị loạn``,trong
đó``lòng dân`` là khái niệm và tư tưởng của nhà nho; nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói (
nếu dường nối vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh)
trong đó vô vi là khái niệm của Lão- Trang mặc dù khái niệm đó được giả thích
theo quan niêm nhà Phật.
Hạn chế lớn nhất của phật giáo đối với tư duy
của người việt nam là quan điểm duy tâm thần bí .Quan điểm này không hướng người
ta vào hiện thực mà hướng vào quả báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong
được phù hộ, độ trì.Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi,
sáng tạo và hành động
Tóm lại, Phật giáo hoà nhập thành một yếu tố
dân tộc nên đã thúc đẩy bánh xe lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật
giáo trong mối quan hệ với các dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ
thể.Phật giáo đã hướng tới cái đẹp, cái thiện và mang tinh thần yêu nước.Tinh
chân, thiện,mĩ được thể hiện rõ trong tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
Nguồn: internet
Nhận xét
Đăng nhận xét