▀ ThS. VŨ THỊ NHƯ HOA
Khoa
Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực 1
Đ
|
ến nay, ở nước ta, phản biện xã
hội đang nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu lý luận, các nhà hoạt động
thực tiễn và đông đảo tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về phản
biện xã hội đang ở những bước đi đầu tiên. Vì vậy, việc làm rõ những cơ sở lý luận khoa học của phản biện xã hội là
hết sức cần thiết.
1. Khái niệm phản biện xã hội
Phản biện xã hội
là phản ánh một hiện tượng tất yếu trong đời sống chính trị - xã hội. Khái niệm
này được sử dụng ở nhiều nước từ lâu; nhưng ở nước ta, những năm gần đây mới
được quan tâm, thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu, nhất là sau khi “phản biện
xã hội” được chính thức ghi trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X.
Để hiểu phản biện xã hội, trước hết phải hiểu phản biện là gì? Phản biện là một từ Hán
Việt. Hiểu theo cách triết tự thì “phản biện” có nghĩa là “bàn luận theo hướng
(theo cách) ngược lại”, hoặc là sự tranh luận, tranh cãi. Do đó, có thể hiểu
phản biện là dùng chứng cứ, lập luận để bác bỏ chứng cứ, lập luận đã được đưa
ra trước đó. Theo đó, phản biện là sự tranh luận, tức là đưa ra lập luận để làm
rõ đúng - sai; trong phản biện phải hội đủ các luận cứ (thực tiễn, khoa học) để
làm rõ cái đúng, cái sai của vấn đề đang tranh luận. Vì vậy, phản biện khác với
góp ý kiến, phê bình, kiến nghị (không đòi hỏi phải có đủ căn cứ khoa học, thực
tiễn). Là sự tranh luận, phản biện bao hàm cả biện luận và phản biện luận, chứ
không chỉ “một chiều”. Trong phản biện không chỉ là bác bỏ, phủ định, mà có thể
có cả sự bổ sung, làm rõ hơn vấn đề ở góc độ, phương diện khác nhau. Do đó,
không thể đồng nhất phản biện với phản bác, bài xích. Phản biện có nội hàm rộng
hơn phản bác; phản bác chỉ là một khả năng, một tình huống có thể có trong phản
biện.
Từ cách hiểu
phản biện như vậy, có thể hiểu phản biện
xã hội là sự phản biện của xã hội (hay là sự phản biện mang tính xã hội),
tức là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội đối với những
chủ trương, chính sách, đề án, dự án xã hội... liên quan đến quyền lợi và đời
sống của thành viên trong xã hội. Như vậy, phản biện xã hội là tiếng nói nhận thức của xã hội, của các
lực lượng xã hội. Đó là những lập luận có chứng cứ (khoa học, thực tiễn) nhằm
phát hiện, bổ sung, chứng minh, khẳng định hoặc bác bỏ, phủ định một chủ
trương, chính sách hay đề án xã hội được công bố hay đang hình thành. Là “tiếng
nói”, phản biện xã hội khác với tâm trạng xã hội (trạng thái tâm lý, tình cảm
mang tính cảm tính, thường biểu hiện một cách âm ỉ, âm thầm); phản biện xã hội
biểu hiện một cách công khai, rõ ràng. Là “nhận thức”, phản biện xã hội phải có
chứng cứ, lập luận; do đó, nó cũng không đồng nhất với dư luận xã hội (không
cần phải có chứng cứ, lập luận, lý lẽ).
Trong đời sống
xã hội, người ta quen với phản biện khoa
học - phản biện trong lĩnh vực hoạt động khoa học của các nhà khoa học nhằm
đi đến chân lý, khẳng định sự đúng đắn của các lý thuyết, phát minh khoa học.
Phản biện xã hội và phản biện khoa học có những điểm giống và khác nhau rất
quan trọng. Phản biện khoa học là một khái niệm khoa học, đòi hỏi phải có sự
hoàn chỉnh (một cách tương đối) của các lập luận và đặc biệt, đề cao tính khách
quan. Phản biện xã hội không nhất thiết phải có sự hoàn chỉnh (cho dù một cách
tương đối) của các lập luận; đặc biệt là, mặc dù cũng coi trọng tính khách
quan, phản biện xã hội còn có thuộc tính xã hội (phản ánh quyền lợi kinh tế -
chính trị - xã hội của các chủ thể phản biện).
Là một khái niệm
chính trị - xã hội, phản biện xã hội về thực chất là sự phản biện của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của phản biện xã hội
với hai tư cách. Thứ nhất, với tư
cách là người chủ, nhân dân có quyền
giám sát đối với mọi hoạt động của Nhà nước. Bằng hình thức phản biện xã hội,
nhân dân có công cụ hữu hiệu, có điều kiện tốt hơn thực hiện quyền giám sát các
hoạt động của Nhà nước. Thứ hai, với
tư cách là đối tượng chịu sự quản lý
của Nhà nước, nhân dân có quyền bảo vệ những lợi ích, quyền lợi chính đáng, hợp
pháp của mình trước những chủ trương, chính sách, đề án của Nhà nước chưa đáp
ứng đầy đủ hoặc xâm phạm các quyền lợi đó.
Bằng những lập
luận, chứng cứ dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn của các lực lượng xã hội,
các tầng lớp nhân dân, phản biện xã hội làm sáng tỏ đúng - sai của các vấn đề
có tính chất xã hội liên quan đến lợi ích toàn xã hội, đến lợi ích của đông đảo
nhân dân, giúp Nhà nước điều chỉnh chủ trương, chính sách phù hợp với lợi ích
chung của xã hội. Như vậy, bản chất phản biện xã hội là sự thực hành dân chủ,
là đặc trưng rõ ràng của đời sống dân chủ của xã hội. Do đó, thực hiện phản
biện xã hội không chỉ có ý nghĩa đem lại những lợi ích (vật chất và tinh thần)
chính đáng, hợp pháp cho xã hội, mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc, phản ánh
một mối quan hệ chính trị rất cơ bản: quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân.
2. Cơ sở triết học của phản biện xã hội
Cơ sở triết học
của phản biện xã hội là phép biện chứng
duy vật, mà cốt lõi là học thuyết về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập.
Phép biện chứng
là học thuyết toàn diện nhất, phong phú về nội dung, sâu sắc nhất về sự phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng của cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Khi coi
phát triển là sự tự vận động, phép
biện chứng đã chỉ ra ba quy luật cơ bản: quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập, quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và quy luật phủ định của phủ định. Phản biện xã hội là một hiện tượng của
đời sống xã hội, là hoạt động phản ánh tư duy, quá trình nhận thức của những
con người trong xã hội. Vì vậy, phản biện xã hội không thể không tuân theo các
quy luật cơ bản của sự phát triển, của sự “tự vận động”. Cơ sở phương pháp luận
để nhận thức đúng đắn về phản biện xã hội phải là phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Trước hết, theo
Lê-nin, "Có thể định nghĩa vắn tắt
phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập" (1).
Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó, do đó, thực chất
của phép biện chứng là phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận mâu
thuẫn của nó. Lê-nin chỉ ra rằng: sự thống nhất của các mặt đối lập "đó là sự thừa nhận (sự tìm ra) những khuynh hướng mâu
thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập trong tất cả các hiện tượng và quá trình của
giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội). Điều kiện của một sự nhận thức chung
về tất cả các quá trình của thế giới trong "sự tự vận động" của
chúng, trong sự phát triển tự phát của chúng, trong đời sống sinh động của chúng
là sự nhận thức chúng với tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự
phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập" (2).
Xã hội trong sự
tồn tại hiện thực không thể không “có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”,
không thể không có sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập. Sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong đời sống xã hội luôn gắn chặt với
nhau, tồn tại song hành. Nhưng, như Lê-nin đã khẳng định, sự thống nhất là có
điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối; còn sự đấu tranh của các mặt đối
lập là tuyệt đối. Xã hội không thể phát triển (tự phát triển) nếu không có “đấu
tranh” của các mặt đối lập trong xã hội. Nếu xem “thống nhất” và “đấu tranh”
của các mặt đối lập trong xã hội như là hai “cực”, thì mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập đó biểu hiện theo các cấp độ: ủng hộ - góp ý kiến - phản biện - phản kháng
- chống đối - nổi loạn và cuối cùng là cách mạng - thay đổi toàn bộ xã hội bằng
một xã hội mới. Như vậy, phản biện xã hội là một cấp độ biểu hiện “sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập” của xã hội, có mức độ “mâu thuẫn” cao hơn “ủng hộ” và “góp ý kiến”, nhưng
lại thể hiện mức độ “thống nhất” cao hơn các trạng thái “phản kháng”, “chống
đối”, “nổi loạn” và cách mạng.
Chuỗi trạng thái
xã hội mô tả trên phản ánh quy luật vận động “sự thay đổi về lượng dẫn tới sự
thay đổi về chất”. Trong đó, từ “ủng hộ” đến “ nổi loạn” là những thay đổi về
lượng nằm trong giới hạn sự tồn tại của chế độ xã hội hiện hữu (“độ”); còn khi
vượt khỏi giới hạn (“độ”) của sự “thống nhất” và “đấu tranh”, khi mâu thuẫn đã
đến tột đỉnh, sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội, phá vỡ chế độ xã hội hiện tại,
hình thành một chế độ xã hội mới.
Một chế độ xã
hội (thể chế xã hội) nhất định chỉ tồn tại khi những mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập của nó chưa vượt khỏi giới hạn (“độ”) cho phép. Lê-nin chỉ rõ: "... một sự vật chỉ có sức sống, chừng
nào nó bao hàm một mâu thuẫn và nó chính là một lực lượng có khả năng bao hàm
một mâu thuẫn và chịu đựng mâu thuẫn ấy. Nhưng nếu có một cái đang tồn tại
không có khả năng, trong sự quy định khẳng định của nó, đồng thời chuyển sang
sự quy định phủ định của nó và giữ cái nọ trong cái kia, nếu nó không có khả
năng chịu đựng mâu thuẫn bên trong của nó, thì nó không phải là một thể thống
nhất sống, không phải là căn cứ, mà sẽ sụp đổ vì mâu thuẫn của nó" (3).
Xét trong giới
hạn sự tồn tại của xã hội trong một chế độ xã hội nhất định, phản biện xã hội
có ý nghĩa tích cực, thể hiện rõ nhất sự cân bằng của “sự thống nhất” và “đấu
tranh” giữa các mặt đối lập của xã hội, trực tiếp là giữa Nhà nước với xã hội,
giữa lực lượng cầm quyền với đông đảo quần chúng nhân dân, giữa chủ thể với đối
tượng của quản lý xã hội. Phản biện xã hội là sự tranh luận, biện luận (và phản
biện luận) để làm rõ đúng - sai của các chủ trương, chính sách, đề án xã hội,
nhằm đảm bảo tốt nhất lợi ích chung của xã hội, do đó, không chứa đựng sự xung
đột lợi ích (mặc dù có sự phản ánh các lợi ích của các lực lượng xã hội, của
các chủ thể khác nhau). Vì vậy, phản biện xã hội không đưa đến sự phủ định chế
độ xã hội, mà hướng đến đảm bảo sự tồn tại của chế độ xã hội với “sự đấu tranh
và thống nhất của các mặt đối lập” trong sự tự phát triển của nó.
Phản biện xã hội
là một hoạt động xã hội được thực hiện bằng hai dạng hành động cơ bản là biện
luận và phản biện luận, chứng minh (khẳng định) và chứng minh ngược lại (phủ
định). Vì vậy, bản chất phản biện xã hội cũng bao hàm “sự đấu tranh và thống
nhất của các mặt đối lập”.
Tóm lại, phản
biện xã hội là một hiện tượng trong đời sống xã hội, mà sự vận động của nó
không thể ra ngoài các quy luật cơ bản của phép biện chứng; nó là sự phản ánh
hiện thực của các quy luật đó. Bởi thế, để hiểu đúng và thực hiện đúng phản
biện xã hội chỉ có thể dựa trên cơ sở phương pháp luận phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin
Ghi chú:
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ,
Matxcơva, 1981, t.29, tr.240.
(2) V.I.Lê-nin: Sđd., tr. 379.
(3) V.I.Lê-nin: Sđd., tr.149.
Nhận xét
Đăng nhận xét