▀ ThS LÊ CẨM HÀ
Khoa
Tổ chức và Quản lý nhân sự, Học viện Hành chính
T
|
rong quá trình tuyển dụng nhân
lực, để lựa chọn chính xác được người tài và phù hợp với vị trí cần tuyển là
không đơn giản. Trong nhiều trường hợp, bằng cấp và kinh nghiệm làm việc chưa
đủ để thể hiện một người có năng lực hay không. Việc tuyển dụng công chức theo
tinh thần của Luật cán bộ, công chức năm 2008, áp dụng nguyên tắc kết hợp giữa
tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế, vì vậy, cần có
nhiều thay đổi.
Để tiến hành
tuyển dụng, bất kỳ tổ chức nào cũng cần trả lời câu hỏi: khi nào tuyển dụng,
tuyển dụng ai và tuyển dụng để làm gì? Vì vậy, tuyển dụng người vào cơ quan nhà
nước có thể được hiểu là hoạt động nhằm bổ sung người cho các vị trí còn trống
trong cơ quan nhà nước, là tập hợp các công việc nhằm thu hút và lựa chọn các
ứng viên có trình độ chuyên môn cần thiết để đảm nhiệm ngay hay trong tương lai
các vị trí việc làm còn trống đó. Xin trao đổi về nội dung một số khâu trong
công tác tuyển dụng nhân lực của khu vực nhà nước.
1.
Xác định nhu cầu
Về nguyên tắc,
mỗi một vị trí công việc trong tổ chức đều được xác định bởi các nhóm yếu tố:
những yêu cầu, đòi hỏi về công việc; những đòi hỏi đối với người được bố trí,
sắp xếp đảm nhận công việc đó.
Việc tuyển chọn
nhân lực bổ sung thường là do có một vị trí công việc mới chưa có người đảm
nhận xuất hiện trong quá trình phát triển tổ chức hoặc có vị trí trống do thay
đổi nhân sự của tổ chức. Việc xác định mới hoặc xác định lại yêu cầu về công
việc và về nhân sự là hoạt động cần thiết để có thể tuyển được người phù hợp
nhất. Khi cần người mới cho vị trí công việc đang có hoặc công việc mới xuất
hiện cần bổ sung nhân sự, các nhà quản lý có thể: thay thế bằng người trong tổ
chức; tuyển người mới bổ sung; xác định những điều kiện cần cho vị trí thay
thế.
2.
Xác định tiêu chuẩn người cần tuyển
Cần tiến hành
phân tích công việc theo một trình tự nhất định, bao gồm nội dung công việc và
phạm vi công việc. Từ đó xác định rõ, công việc đó đòi hỏi ứng viên cần có kiến
thức, kĩ năng gì và nhất là cần bao nhiêu người để hoàn thành công việc. Việc
phân tích công việc giúp cơ quan dễ dàng đưa ra các yêu cầu cụ thể, chi tiết
trong thông báo tuyển dụng; ứng viên có thể đối chiếu với yêu cầu để quyết định
việc làm đơn xin dự tuyển. Như vậy, cơ quan gián tiếp loại được người không phù
hợp, tránh tình trạng số người dự tuyển đông nhưng số người đạt yêu cầu lại ít,
thậm chí không tìm được ứng viên nổi trội.
Các tiêu chuẩn
đối với vị trí cần thay thế và vị trí nhân sự mới cần bổ sung có thể phân chia
thành một số nhóm cụ thể, như:
- Về thể chất
(tâm sinh lý, hình thức, sức khoẻ, giọng nói);
- Về đào tạo:
bằng cấp, kinh nghiệm;
- Khả năng thích
ứng với công việc (tự điều chỉnh, phản ứng với sự thay đổi, biểu hiện đột biến
về tâm lý...).
Để xác định
những yêu cầu đối với công việc cần thay thế và bổ sung mới cần mời các nhà
chuyên môn tham gia trên một số lĩnh vực. Trong trường hợp cần thiết, có thể có
sự tham gia của người lao động hoặc các tổ chức là đại diện của người lao động
như công đoàn, hội nghề nghiệp...
Như vậy, thông qua tiến hành phân tích công
việc, tổ chức có thể xây dựng hệ thống các tiêu chí nhằm bảo đảm chọn được
người mong muốn. Đó là: so sánh với người được đánh giá hoạt động tốt hiện nay;
bằng cấp, học vấn, ngành và thời gian học; kinh nghiệm công tác; thâm niên; sức
khoẻ; nhân cách; các tiêu chí có giá trị cạnh tranh và phát triển của từng cá
nhân.
Cần quan tâm tạo
điều kiện để người tham gia dự tuyển có một bức tranh đầy đủ về những công việc
mà họ sẽ làm. Để làm việc này, nhiều tổ chức thường cung cấp cho ứng viên tham
dự kỳ thi tuyển một bản tóm lược những thông tin đầy đủ, rõ ràng về những nét
đặc trưng hấp dẫn cũng như hạn chế của công việc. Bản mô tả công việc cần tuyển
ứng viên đòi hỏi phân tích nhiều yếu tố liên quan và phải làm rõ một số nội
dung:
- Chức danh công
việc: công việc trong tổ chức đã được đặt tên hoặc một chức danh mới.
- Mục đích của
công việc: mô tả ngắn gọn, nêu những mục đích, nguyên nhân chính về sự tồn tại
của vị trí công tác này.
- Nhiệm vụ: mô
tả các loại công việc mà vị trí công việc phải thực hiện (mang tính thường
xuyên hoặc không thường xuyên).
- Những mô tả
chi tiết về cách thức thực thi (nếu có).
- Quyền hạn:
những quyền hạn được thực hiện trong công việc (chính thức thường xuyên hoặc
được ủy quyền khi có thể).
- Mối quan hệ
trong quá trình thực thi công việc (bên trong và bên ngoài).
- Có thể mô tả
riêng hoặc chung các chế độ đối với công việc (lương, thưởng, các điều kiện bảo
đảm v.v..).
Ví dụ, tuyển
người làm công việc thư ký trong tổ chức, cần chỉ ra những công việc cụ thể mà
nhân viên thư ký phải làm (10-15 nhiệm vụ và mỗi nhiệm vụ sẽ có những quy định
cụ thể). Đây không chỉ là cơ sở để xây dựng tiêu chí tuyển chọn, mà còn là cơ
sở để xác định các hình thức bồi dưỡng tiếp theo.
3.
Thu hút ứng viên cho quá trình tuyển dụng
Cho đến nay, các
cơ quan nhà nước ít quan tâm tới việc thu hút ứng viên, vì cơ quan nhà nước
thường là sự lựa chọn số một cho các ứng viên. Tuy nhiên, trong tương lai gần
thì sức hấp dẫn của cơ quan nhà nước không còn lớn như trước, nhất là đối với
các ứng viên có tài năng, năng động, sáng tạo.
Gần đây, làn
sóng “rời nhiệm sở” được coi là vấn đề thời sự trong quản lý nguồn nhân lực của
khu vực nhà nước. Tuy số lượng cán bộ, công chức ra đi chiếm tỉ lệ không lớn so
với số người làm việc cho khu vực cơ quan nhà nước, nhưng phần lớn người ra khỏi
khu vực này là những người năng động, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm
việc. Trong thực tế, mỗi khi có người ra khỏi cơ quan nhà nước thì ngay lập tức
sẽ có người khác thay vào vị trí đó. Vấn đề là, những người vào làm việc trong
các cơ quan nhà nước là ai và liệu trước những thay đổi trên thị trường lao
động như hiện nay, cơ quan nhà nước có tuyển được người tài hay không? Như vậy,
đối với các cơ quan hành chính nhà nước, việc tạo lập thị trường lao động riêng
có vai trò quan trọng trên nhiều phương diện. Đó là:
- Tạo lập nguồn
bổ sung nhân lực.
- Nâng cao hiệu
quả của hoạt động tuyển dụng. Khi xây dựng một thị trường lao động riêng, tổ
chức đã thiết lập được một “màng lọc tự nhiên” có khả năng loại bớt những cá
nhân không phù hợp với yêu cầu ngay từ khâu đầu của quá trình tuyển dụng, giảm
bớt sự phức tạp cho các khâu sau. Do đó có thể giảm chi phí cho quá trình tuyển
dụng.
- Nâng cao khả
năng cạnh tranh nguồn nhân lực của các cơ quan nhà nước với các tổ chức khác,
đặc biệt là các tổ chức thuộc khu vực tư nhân. Xây dựng một thị trường lao động
riêng, hình thành một đội ngũ những người có đủ khả năng và sẵn sàng vào làm
việc cho các cơ quan nhà nước là biện pháp tối ưu để nâng cao tính cạnh tranh
trên thị trường nhân lực của tổ chức thuộc khu vực công.
- Duy trì tính
ổn định của các cơ quan nhà nước. Khi đã tạo lập được một thị trường lao động
riêng, trong những trường hợp cần bổ sung nhân lực, dù là định kỳ hay phải
tuyển dụng gấp, các cơ quan nhà nước có thể hoàn toàn chủ động bổ sung ngay
nguồn nhân lực thiếu hụt. Điều này sẽ giúp đơn vị, tổ chức tránh mọi xáo trộn,
duy trì tính ổn định của bộ máy nhân sự nói riêng và toàn bộ hoạt động của tổ
chức nói chung.
- Việc tạo lập
thị trường lao động riêng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động quản lý nguồn nhân
lực. Ví dụ, quá trình tạo lập thị trường lao động riêng thu hút nhiều người có
trình độ cao tham gia, do đó nhu cầu cần đào tạo sẽ ít hơn, người có trình độ
cao mong muốn mức lương cao hơn và như vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến các chính
sách đào tạo, phát triển cũng như các quan hệ tiền lương và lao động khác.
- Việc thiết lập
thị trường lao động riêng đưa ra những thông tin, yêu cầu, đòi hỏi đối với
những người muốn vào làm trong tổ chức. Những thông tin này giúp người lao động
định hướng công việc của mình trong tương lai, xác định những việc cần phải làm
để thoả mãn các yêu cầu đó.
Các cơ quan nhà
nước cần quan tâm và chú ý các biện pháp tạo lập thị trường riêng của khu vực
nhà nước, như: thông qua các kênh giao tiếp, quảng bá hình ảnh của cơ quan nhà
nước, tài trợ học bổng cho những sinh viên trong các trường đại học, liên kết
với các trường đại học để đào tạo theo nội dung đặt hàng, tổ chức hội thảo, tạo
điều kiện để sinh viên đến cơ quan nhà nước thực tập... Về mặt pháp lý, cần có
cơ chế để cơ quan nhà nước tự chủ hơn trong lựa chọn ứng viên, thu hút nguồn
nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và giúp công chức có
nhiều sự lựa chọn, thay đổi nghề nghiệp. Hệ thống các trường đại học cũng cần
quan tâm đến những chuyên môn của khu vực công để điều chỉnh các chương trình
cần thiết. Sinh viên có thể tham gia các khoá đào tạo về chức nghiệp trong khu
vực nhà nước để tăng thêm sự hiểu biết và tích luỹ kinh nghiệm.
Điều quan trọng
cho việc sơ tuyển hay tạo thị trường riêng cho nền hành chính là tạo điều kiện
để những người muốn vào làm việc trong tổ chức tìm hiểu thực tế công việc. Qua
đó, tạo cho họ có kỳ vọng đúng với công việc sẽ làm, hạn chế sự “ra đi” sớm khi
kỳ vọng trở thành thất vọng. Đặc biệt đối với các cơ quan nhà nước, khi tuyển
dụng phải xác định rõ cho ứng viên con đường chức nghiệp, mức lương được hưởng,
môi trường làm việc và các cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp... để tránh tình
trạng nhân viên bất ngờ “rời nhiệm sở”.
4.
Lựa chọn
Hiện nay rất
nhiều công ty áp dụng cách thức tuyển người thông qua việc đưa ra những tình
huống cụ thể trong công việc để ứng viên thử sức và qua hình thức phỏng vấn để
tìm các ứng viên có kinh nghiệm công tác. Cơ quan nhà nước cũng nên áp dụng
hình thức này trong tuyển dụng. Thông qua phỏng vấn để tìm hiểu một số phẩm
chất của ứng viên cần thiết cho công việc như:
- Niềm đam mê
giúp họ làm việc và cống hiến. Điều này rất cần thiết đối với công chức trên
con đường chức nghiệp, vì đó là một quá trình cống hiến lâu dài và bền bỉ.
- Chăm chỉ: dù
nhân viên là người tài năng nhưng rất cần phẩm chất chăm chỉ để luôn sẵn sàng
làm việc.
- Chủ động trong
công việc: là phẩm chất rất cần thiết của nhân viên để hoàn thành công việc mà
không cần nhiều thời gian hướng dẫn, ngay cả khi người quản lý vắng mặt và khi
có những tình huống bất ngờ xảy ra.
- Khả năng giao
tiếp: là phẩm chất mà hầu như các tổ chức đều cần đối với nguồn nhân lực hiện
nay để góp phần nâng cao hiệu quả của tổ chức.
- Khả năng làm
việc nhóm: trong tổ chức không ai có thể thành công khi làm việc độc lập nên
khi các nhân viên có khả năng làm việc theo nhóm giúp cho tiến độ công việc
nhanh hơn và hiệu quả cao, vì huy động được trí tuệ tập thể, tạo dựng được
nhiều giá trị chung của tổ chức.
Trong khi lựa
chọn ứng viên nên căn cứ vào quá trình phân tích công việc để lựa chọn người
phù hợp chứ không chỉ lựa chọn người có điểm cao, do đó cơ quan nhà nước cần
tiến hành phỏng vấn để có quyết định tuyển hay không tuyển. Mặt khác, trong
tuyển dụng cần đảm bảo nguyên tắc: khách quan, công bằng và bình đẳng.
Để tuyển dụng
được người có tài năng và phù hợp với vị trí công việc là một việc khó trong
bối cảnh hiện nay. Vì vậy, cơ quan nhà nước cần quan tâm hơn đến chính sách thu
hút người tài, cách thức tuyển dụng, bố trí công việc và áp dụng chế độ làm
việc linh hoạt để hoạt động công vụ đạt hiệu quả cao ./.
Bài viết được đăng trên website: www.caicachhanhchinh.gov.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét