▀ ĐÀO THỊ THANH THỦY
Khoa
Hành chính học, Học viện Hành chính
H
|
ợp chủng quốc Hoa Kỳ (Hoa Kỳ)
thành lập bởi Hiến pháp năm 1787, là một khối liên hiệp của 50 bang. Mỗi bang
đều có chính quyền riêng. Đứng đầu các bang là Chính phủ Liên bang. Những đặc
điểm của mô hình tổ chức quyền lực nhà nước Hoa Kỳ là điển hình của chính thể
cộng hoà tổng thống - hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó Tổng thống vừa là
nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp, do nhân dân trực
tiếp hoặc gián tiếp bầu ra.
Điểm nổi bật của
chính thể cộng hoà tổng thống là áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực một
cách cứng rắn với một hệ thống kiềm chế và đối trọng. Đó là sự phân bổ quyền
lực giữa các nhánh riêng rẽ của chính quyền, được gọi là các biện pháp kiểm
soát và cân đối quyền lực lẫn nhau (checks and balance). Đây là một hệ thống
nằm ngay bên trong chính quyền nhằm đảm bảo tính trách nhiệm của chính quyền.
Mục đích của hệ thống này là ngăn ngừa trước những hậu quả xấu có thể xảy ra
trong quá trình hoạt động của các nhánh quyền lực nhà nước. Đó là những quy
định tạo nên cơ chế tự kiểm tra lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước, để không
phải thụ động chờ đến lúc những người thi hành công vụ buộc phải đưa đến vòng
xét xử của các cơ quan tài phán. Cách kiểm tra này được gọi là kiểm tra từ bên
trong, tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước.
Hiến pháp Hoa Kỳ
chỉ định rõ những công việc mà Chính phủ Liên bang có quyền quyết định. Ngoài
phạm vi này, tất cả các công việc khác đều do các bang độc lập tự quyết, Chính
phủ Liên bang không được phép xen vào những gì thuộc thẩm quyền riêng của Chính
quyền bang. Chính phủ Liên bang được chia thành ba ngành: lập pháp, hành pháp,
tư pháp, thể hiện lý thuyết tam quyền phân lập. Mỗi ngành có trách nhiệm quyền
hạn riêng biệt, kiểm tra và cân bằng quyền lực lẫn nhau nhằm không ngành nào có
thể chiếm ảnh hưởng hay vượt quyền Chính phủ.
1. Lập pháp
Ngành lập pháp
có quyền ban hành pháp luật: Hiến pháp và các bộ luật. Cơ quan lập pháp của Hoa
Kỳ là Quốc hội. Quốc hội có quyền thông qua chính sách công của chính quyền,
mọi khoản chi phí của Chính phủ phải thông qua sự phê chuẩn của Quốc hội. Quốc
hội có quyền buộc tội bất cứ viên chức nào của chính quyền và toà án, kể cả
Tổng thống. Đồng thời có quyền ra lệnh cho cơ quan tư pháp hoặc Uỷ ban tư pháp
của Quốc hội tiến hành điều tra khi có dấu hiệu sai luật của bất cứ cá nhân
hoặc cơ quan nào. Quốc hội được chia thành hai viện riêng biệt.
Thượng nghị viện gồm có 100 thượng nghị
sĩ, mỗi bang hai nghị sĩ. Các thượng nghị sĩ do nhân dân trong bang bầu lên để
đại diện cho bang đó theo nhiệm kỳ 6 năm. Thượng nghị sĩ phải trên 30 tuổi tính
đến ngày tuyển cử và phải là công dân Hoa Kỳ tối thiểu được 9 năm. Các hoạt
động chính của Thượng viện bao gồm: đề xuất luật hoặc tu chính luật ra nghị sự;
nghiên cứu và biểu quyết luật, dự luật; thông qua bổ nhiệm cán bộ cao cấp của
Tổng thống; giám sát thường xuyên các hoạt động của cơ quan hành pháp và tư
pháp.
Hạ nghị viện có tổng số 435 nghị sĩ do
nhân dân bầu lên với nhiệm kỳ 2 năm. Nghị sĩ đại diện cho mỗi bang được ấn định
theo dân số của bang. Tuổi của nghị sĩ ít nhất là 25 khi được tuyển cử và phải
là công dân Mỹ được 7 năm. Công việc chính của Hạ viện là làm luật, mọi hoạt
động của Hạ viện là hệ thống tác nghiệp có tổ chức nhằm tu chính hoặc đưa ra
luật mới mà Thượng viện chuyển giao.
Hai viện có
quyền ngang nhau trong công việc lập pháp. Viện nào cũng có thể đưa ra sáng
kiến lập pháp, ngoại trừ luật tăng thuế lợi tức phải do Hạ nghị viện đưa ra.
Tuy nhiên, chỉ có Thượng nghị viện mới có thể phê chuẩn hay bác bỏ những hiệp
ước với các quốc gia khác do Tổng thống đề nghị, bác bỏ các bổ nhiệm của Tổng
thống như bổ nhiệm Tối cao pháp viện, các tướng lĩnh, các thành viên trong nội
các (các Bộ trưởng), các đại sứ và giám đốc các cơ quan chính quyền.
Tuy thực hiện
nguyên tắc phân lập các quyền dứt khoát theo chế độ tổng thống, nhưng Nghị viện
Hoa kỳ cũng có quyền kiểm soát rộng đối với Chính phủ. Tổng thống bổ nhiệm các
công chức cao cấp phải hỏi ý kiến của Thượng viện và có thể bị từ chối. Trước
khi những dự án luật thành pháp luật, dự án luật đó phải được cả hai viện chấp
thuận và được Tổng thống ký. Nếu Tổng thống bác bỏ thì có thể dùng quyền phủ
quyết; nhưng nếu một lần nữa được cả hai viện thông qua với 2/3 số phiếu thì dự
luật đó trở thành luật pháp mà không cần chữ ký của Tổng thống. Tổng thống
không có quyền kiểm soát Quốc hội, dẫu rằng đảng của mình chiếm đa số trong cả
hai viện. Người có quyền lãnh đạo chính trị lớn nhất trong Hạ nghị viện là Chủ
tịch Hạ nghị viện và lãnh tụ khối đa số.
2. Hành pháp
Theo Hiến pháp
Hoa Kỳ, “quyền hành pháp sẽ được giao cho Tổng thống Hoa Kỳ” (Điều 2). Vì hai
chức danh nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu hành pháp tập trung vào một
người cho nên Tổng thống có toàn quyền trong việc quyết định nhân sự Chính phủ,
trừ quyền phê chuẩn của Thượng viện. Các bộ trưởng chỉ là những người giúp việc
cho Tổng thống, thực hiện những chính sách của Tổng thống, không được mâu thuẫn
với đường lối, chính sách của Tổng thống. Đây là điểm khác biệt căn bản so với
chính thể đại nghị, trong đó Chính phủ được thành lập và phải chịu trách nhiệm
trước nghị viện, gây nên sự lật đổ và giải tán lẫn nhau. Sở dĩ có hiện tượng
này là do mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp được phân định một cách rõ
ràng hơn, lập pháp không được quyền đứng ra thành lập hành pháp và hành pháp
không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Do đó, nghị viện không được quyền
lật đổ Chính phủ và Chính phủ cũng không có quyền giải tán nghị viện. Đó là hai
thiết chế hoàn toàn độc lập, cùng do dân bầu ra và cùng chịu trách nhiệm trước
dân. Chính việc áp dụng nguyên tắc phân quyền chặt chẽ này là cơ sở cho việc
không chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp. Lập pháp và hành
pháp kìm chế và đối trọng lẫn nhau để không cơ quan nào có thể tiếm quyền. Nghị
viện không có quyền lật đổ Chính phủ và ngược lại, Tổng thống cũng không có
quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn.
Những quyết định
của Tổng thống phải được Quốc hội chấp thuận mới có thể thi hành và ngay cả đến
quyền phủ quyết của Tổng thống cũng có thể bị bãi bỏ nếu 2/3 nghị sĩ Quốc hội
chống lại. Nếu gặp một Quốc hội bất hợp tác, Tổng thống cũng sẽ không có quyền
lực gì. Do đó, người ta thường nói quyền lực thật sự của Tổng thống là quyền
thuyết phục. Ngược lại, Quốc hội không thể lật đổ Tổng thống, trừ khi có những
lỗi rất nghiêm trọng.
3. Tư pháp
Ngành tư pháp có
nhiệm vụ bảo vệ quyền tự do và tài sản của người dân Hoa Kỳ theo Hiến pháp.
Ngành tư pháp của Chính phủ Hoa Kỳ bao gồm một hệ thống tòa án liên bang, có
cấu trúc theo quyết định của Quốc hội. Quốc hội có quyền thành lập và bãi bỏ
các toà án liên bang, cũng như quyền quy định số lượng thẩm phán trong hệ thống
xét xử liên bang. Tuy nhiên, Quốc hội không được phép bãi bỏ Toà án Tối cao.
Toà án Tối cao
là toà án cấp cao nhất của Hoa Kỳ và là toà án duy nhất do Hiến pháp đặc biệt
lập ra. Quyết định của Toà án Tối cao thì không thể được chuyển lên phúc thẩm ở
bất kỳ toà án nào khác. Quốc hội có quyền ấn định số thẩm phán trong Toà án Tối
cao, quyết định loại vụ việc nào Toà án Tối cao có thể xét xử. Song Quốc hội
không thể thay đổi các quyền mà chính Hiến pháp đã trao cho Toà án Tối cao.
Tòa án Tối cao
có quyền phán quyết hủy bỏ một bộ luật, cho dù bộ luật này được Quốc hội thông
qua và Tổng thống chấp nhận. Tòa án Tối cao cũng được phép bác bỏ những quyết
định khẩn cấp của Tổng thống, đây là biện pháp kiểm tra và cân bằng đối với
quyền lực của Tổng thống. Tòa án Tối cao cũng có quyền chỉ thị Quốc hội và Tổng
thống phải cung cấp thông tin khi cần. Ngoài quyền xét xử, Toà án tối cao còn
có chức năng quản lý hành chính và kiểm soát toàn bộ bộ máy tư pháp liên bang.
Điều này khác với một số nước như ở Pháp, quyền quản lý các toà án thuộc Bộ Tư
pháp, tức thuộc quyền hành pháp
Bài viết được đăng trên website: www.caicachhanhchinh.gov.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét