Quản lý chất lương trong khu vực công ở Việt Nam


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu của mọi nền kinh tế trong đó có Việt Nam. Hội nhập với khu vực và thế giới sẽ tạo ra những cơ hội to lớn giúp các tổ chức Việt Nam mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, có cơ hội tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lí mới… nhưng kèm theo đó cũng là những thách thức. Thách thức lớn nhất trong quá trình hội nhập chính là vấn đề năng lực trong quá trình cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh còn được thể hiện thông qua ưu thế về năng suất và chất lượng sản phẩm.


  Chất lượng sản phẩm vốn là điểm yếu kém kéo dài nhiều năm của nước ta, từ thời bao cấp cho đến nay Việt Nam khong ngừng cải thiện trong việc quản lí chất lượng với xu thế tự do thương mại trên thế giới và việc dỡ bỏ những hàng rào thuế quan, bài toán để tồn tại và phát triển của Việt Nam chỉ có một lời giải thích duy nhất, đó là cải tiến nâng cao năng suất, chất lượng. Vì vậy nhà nước phải có những chính sách phù hợp nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm của nước ta và thực tế quản lí‎ chất lượng của nước ta được thể hiện như thế nào? Thì bài tiểu luận sau đây góp phần giúp chúng ta hiểu về thực tế quản lí chất lượng của Việt Nam, và sự cần thiết phải quan tâm đến quản lí chất lượng trong khu vực công ở nước ta.


2. Mục đích nghiên cứu
  Nhằm nghiên cứu thực tiễn quản lí chất lượng trong khu vực công của Việt Nam

3. Phương pháp nghiên cứu
  Để tìm hiểu về đề tài này chúng ta vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: thông kê, quan sát…
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm
1.1 Chất lượng
  Chất lượng là một khái niệm quên thuộc với chúng ta. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng cũng là một khái niệm gây ra rất nhiều tranh cãi. Tùy theo đối tượng sử dụng mà có những định nghĩa khác nhau về “chất lượng”
-        Theo Bill Conway – Mỹ: “chất lượng là cách thức quản lí đúng đắn”
-        Theo W. Edwards Deming – Mỹ: “chất lượng là mức dự báo về độ đồng đều, tin cậy với chi phí thấp nhất và phù hợp với thị trường”
-        Chất lượng theo quan điểm của nhà sản xuất: Các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa vào những năm 1930 cho rằng chất lượng sản phẩm là những đặc tính kinh tế, kỹ thuật nội tại, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu đã định trước trong điều kiện xác định về kinh tế xã hội.
-        Chất lượng theo khách hàng:
    Theo quan điểm của quản trị chất lượng toàn diện : Ishikawa cho rằng: “ chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu với chi phí thấp nhất”
   - Khái niệm chất lượng theo ISO 9000
    Tiêu chuẩn ISO 9000: 2000, định nghĩa như sau: chất lượng là mức độ tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu. Như vậy khái niệm chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 đã giải quyết cả ba yêu cầu :
-        Phục vụ người sản xuất
-        Hướng vào khách hàng
-        Xem xát đến yêu cầu của các bên liên quan ( bảo vệ sức khỏe và môi trường…)
1.2 Quản lí chất lượng
 Chất lượng không tự sinh ra, chất lượng cũng không phải là kết quả ngẫu nhiên, nó là kết quả của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau.
-        Quản lí chất lượng là khái niệm được phát triển và hoàn thiện liên tục, thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng và phản ánh sự thích ứng với điều kiện và môi trường kinh doanh mới.
-        Ngày nay, quản lí chất lượng đã được mở rộng tới tất cả hoạt động, từ sản xuất đến quản lí, dịch vụ và trong toàn bộ chu trình sản phẩm.
-        “Quản lí chất lượng là xây dựng, bảo đảm và duy trì mức chất lượng tất yếu của chính phủ khi thiết chế, chế tạo, lưu thông và tiêu dùng. Điều này được thể hiện bằng cách kiểm tra chất lượng một cách hệ thống, cũng như những tác động hướng tích tới các nhân tố và được ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm” - FOCT
-        “Quản lí chất lượng là ứng dụng các phương pháp, thủ tục, kiến thức khoa học kỹ thuật bảo đảm cho các sản phẩm sẽ hoặc đang sản xuất phù hợp với thiết kế, với yêu cầu trong hợp đồng bằng con đường hiệu quả nhất” (A.Robertson – Anh)
-        Theo ISO 8402:1999 : Quản lí chất lượng là những hoạt động của chức năng quản lí chung nhằm xác định chính sách chất lượng và thực hiện thông qua các biện pháp như lập kế hoạch chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong hệ thống chất lượng
-        Theo ISO 9000:2000: Quản lí chất lượng là các hoạt động phối hợp với nhau để tiến hành và kiểm soát một tổ chức về mặt chất lượng
2. Nguyên tắc quản lí chất lượng
2.1.Nguyên tắc định hướng bởi khách hàng
 Tổ chức phụ thuộc vào khách hàng của mình, vì thế cần hiểu các nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng. Chất lượng không chỉ đáp ứng nhu cầu mà hơn cả sự mong đợi của khách hàng. Chát lượng là yếu tố quan trọng là điều kiện để duy trì thị trường và thu hút khách haàng. Các tổ chức cũng như các doanh nghiệp không chỉ sản xuất ra những hàng hóa đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống mà còn phải cải tiến đổi mới khoa học kỹ thuật, khả năng thích ứng nhanh và đáp ứng nhu cầu thị hiếu.
2.2. Nguyên tắc sự lãnh đạo
  Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của tổ chức. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ lôi cuốn mọi người đạt được mục tiêu đã đề ra.
Lãnh đạo phải chỉ đạo và xây dựng chiến lược, hệ thống các biện pháp huy động sự tham gia của các thành viên để nâng cao năng lực của tổ chức cũng như đạt kết quả của tốt nhất.
2.3. Nguyên tắc sự tham gia của mọi người
  Con người là nguồn lực quan trọng của tổ chức. Để đạt kết quả trong việc nâng cao chất lượng, kỹ năng, nhiệt tình, ‎‎con người đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhà lãnh đạo tạo điều kiện cho mọi nhân viên nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn quản lí.
2.4. Nguyên tắc quan điểm quá trình
  Kết quả mong muốn sẽ đạt sẽ đạt được một cách hiệu quả khi nguồn lực và các hoạt động có liên quan được quản lí như một quá trình. Quá trình là hoạt động biến đổi đầu vào thành đầu ra. Để quá trình đạt hiệu quả , giá trị đầu ra phải lớn hơn đầu vào. Trong một tổ chức, đầu vào của quá trình này là đầu ra của quá trình trước đó và toàn bộ quá trình trong tổ chức tạo thành hệ thốn mạng lưới của quá trình. Trong tổ chức quản lí tốt mạng lưới quá trình sẽ đảm bảo chất lượng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
2.5. Tính hệ thống
 Quan điểm hệ thống quản lý. Việc quản lý một cách có hệ thống sẽ làm tăng hiệu quả và hiệu lực hoạt động của công ty.
2. 6. Cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục là mục tiêu của mọi công ty và điều này càng trở nên đặc biệt quan trong trong sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh như hiện nay.
2.7. Quyết định dựa trên sự kiện.
 Các quyết định và hành động có hiệu lực dựa trên sự phân tích dữ liệu và thông tin.
2. 8. Quan hệ cùng có lợi với bên cung ứng.
 Thiết lập mối quan hệ cùng có lợi với bên cung ứng sẽ nâng cao khả năng tạo ra giá trị của cả hai bên
3. Phương thức quản lí chất lượng
3.1 Kiểm tra chất lượng
Kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm, định cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính.
  Đặc trưng của phương pháp kiểm tra chất lượng.

-        Việc kiểm tra chất lượng chỉ được diễn ra khi sản phẩm đã được sản xuất ra. Vì vậy, khó có thể đảm bảo được chất lượng của hàng hoá
-        Áp dụng phương pháp kiểm tra đòi hỏi phải có các yêu cầu quy định cụ thể và rõ ràng làm cơ sở để kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Ưu điểm của phương pháp kiểm tra chất lượng
-        Góp phần quan trọng trong việc kiểm soát chất lượng đầu ra của sản phẩm.
-        Loại bỏ những sản phẩm không đảm bảo chất lượng sau khi đã sản xuất xong.
Hạn chế của phương pháp kiểm tra chất lượng
-        Đây là một phương pháp gây nhiều tốn kém về tài chính và mất nhiều thời gian.

-        Quá trình kiểm tra không trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng và chất lượng không được tạo dựng nên qua công tác kiểm tra.

3.2. Kiểm soát chất lượng - QC
(Quanlity Control)
Kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
  Đặc trưng của phương pháp kiểm soát chất lượng
          Kiểm soát chất lượng là kiểm soát các yếu tố sau đây:
-        Kiểm soát con người;
-        Kiểm soát phương pháp và quá trình;
-        Kiểm soát các yếu tố đầu vào;
-        Kiểm soát trang thiết bị dùng trong sản xuất và thử nghiệm;
-        Kiểm soát môi trường và thông tin;

  Ưu điểm của phương pháp kiểm soát chất lượng
-        Góp phần đảm bảo các điều kiện cơ bản để đạt được chất lượng của sản phẩm.

-        Đánh giá được cụ thể chất lượng của sản phẩm từ các yếu tố hình thành. Chú trọng các yếu tố đầu vào của sản phẩm như nguyên nhiên vật liệu, môi trường làm việc…

Hạn chế của phương pháp kiểm soát chất lượng
-        Đòi hỏi công tác kiểm soát phải tiến hành trên phạm vi và quy mô rộng. ở tất cả các khâu, các bộ phận
-        Chi phí lớn và tốn nhiều thời gian
    - Chưa đưa ra được những biện pháp cần thiết đối với các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
3.3. Đảm bảo chất lượng - QA
Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động có kế hoạch, có hệ thống và được khẳng định nếu cần để đem lại lòng tin thoả đáng của khách hàng vào sản phẩm thoả mãn các yêu cầu đã định đối với chất lượng.
Ưu điểm của phương pháp đảm bảo chất lượng
Việc thiết lập một hệ thống đảm bảo chất lượng tốt có thể giảm một số hoạt động kiểm soát chất lượng như thanh tra, theo dõi,… bởi vì hệ thống đảm bảo chất lượng đã làm giảm hay ngăn ngừa được những nguyên nhân của sự tạo ra các lỗi, hay thiếu xót trong các quá trình, và do đó, sẽ làm giảm được chi phí sản xuất.
Việc đảm bảo chất lượng mang tính chủ động, có kế hoạch và hệ thống. Chứng tỏ và làm minh bạch hoá chất lượng của sản phẩm.

Phương pháp này dễ thực hiện vì muốn đánh giá một sản phẩm có đảm bảo chất lượng hay không thì các nhà sản xuất phải kiểm tra chất lượng từ khâu chuẩn bị cho đến khâu sản xuất và cho ra sản phẩm.

Hạn chế của phương pháp đảm bảo chất lượng
Việc đảm bảo chất lượng phải được dựa trên sự  kiểm tra, gây nên nhiều khâu trung gian, điều đó cũng gây lãng phí lớn và mất nhiều thời gian.

Nếu không xây dựng được một hệ thống đảm bảo chất lượng toàn diện và đồng bộ từ khi bắt đầu sản xuất hàng hóa và dịch vụ thì khó có thể đảm bảo được chất lượng của sản phẩm.

Đòi hỏi tính tự giác và ý thức cao của các khâu, các bộ phận trong đảm bảo chất lượng của sản phẩm.
3.4. Kiểm soát chất lượng toàn diện – TQC

Kiểm soát chất lượng toàn diện là một hệ thống có hiệu quả để nhất thể hoá các nỗ lực phát triển, duy trì và cải tiến chất lượng của các nhóm khác nhau vào trong một tổ chức sao cho các hoạt động marketing, kỹ thuật, sản xuất và dịch vụ có thể tiến hành một cách kinh tế nhất, cho phép thảo mãn hoàn toàn khách hàng”.
Đặc trưng của phương pháp kiểm soát chất lượng toàn diện.
Kiểm soát chất lượng toàn diện huy động nỗ lực của mọi đơn vị trong công ty vào các quá trình có liên quan đến duy trì và cải tiến chất lượng.

Phạm vi kiểm soát chất lượng rộng lớn.

Ưu điểm của phương pháp kiểm soát chất lượng toàn diện.
Kiểm soát chất lượng toàn diện sẽ giúp tiết kiệm tối đa trong sản xuất, dịch vụ đồng thời thỏa mãn nhu cầu khách hàng.

Huy động được sự tham gia của tất cả các nhân viên trong tổ chức nhằm đảm bảo chất lượng của sản phẩm. Tăng cường tinh thần đoàn kết trong tổ chức.

Tối thiểu hoá chi phí, hướng tới mục tiêu hiệu quả kinh tế trong sản xuất.

Hạn chế của phương pháp kiểm soát chất lượng toàn diện.
Đòi hỏi sự tham gia nhiệt tình và có ý thức của các thành viên trong tổ chức.

Mất nhiều thời gian và diễn ra trên phạm vi rộng, đòi hỏi hoạt động kiểm soát phải diễn ra thống nhất, đồng bộ.

3.5. Quản lý chất lượng toàn diện – TQM
Theo ISO 9000, Quản lý chất lượng đồng bộ là cách quản lý một tổ chức tập trung vào chất lượng, dựa vào sự tham gia của tất cả các thành viên của nó, nhằm đạt được sự thành công lâu dài nhờ việc thỏa mãn khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành  viên của tổ chức đó và cho xã hội.

Đặc trưng của phương pháp quản lý chất lượng toàn diện.
-Kiểm soát chất lượng toàn diện cung cấp một hệ thống đồng bộ cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng.
-Huy động sự tham gia của mọi bộ phận, mọi cá nhân trong tổ chức.
-Chất lượng định hướng bởi khách hàng.
-Vai trò lãnh đạo trong công ty được đề cao. Hướng tới quản lý chất lượng từ yếu tố con người.

Tính nhất thể, hệ thống trong quá trình quản lý được đảm bảo.

Sử dụng các phương pháp tư duy khoa học như kỹ thuật thống kê, vừa đúng lúc,...

Ưu điểm của phương pháp quản lý chất lượng toàn diện.
Cải tiến chất lượng liên tục của chất lượng sản phẩm.

Liên kết và tạo ra sự gắn bó giữa các bộ phận, thành viên trong tổ chức.

Giảm chi phí không cần thiết cho những sản phẩm không cần thiết mà khách hàng không có nhu cầu

Hạn chế của phương pháp quản lý chất lượng toàn diện.

Đòi hỏi sự thích ứng cao với những thay đổi liên tục đê cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Khó huy động được sự tham gia của mọi cá nhân, thành viên trong tổ chức vì ý thức và trách nhiệm của mỗi người là khác nhau.
Cần có những chiến lược cụ thể trong quản lý chất lượng toàn diện.

II. QUẢN LÍ CHẤT LƯỢNG TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
1. Quản lí trong lĩnh vực hành chính

Ngày nay, chất lượng sản phẩm và dịch vụ đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đảm bảo, cải tiến chất lượng và tăng cường, đổi mới quản lý chất lượng không chỉ thực hiện được ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các sản phẩm vật chấtt mà ngày càng được thể hiện rộng rãi trong các lĩnh vực dịch vụ như: Quản lý hành chính, y tế, giáo dục, đào tạo, tư vấn ... Trong đó dịch vụ quản lý hành chính nhà nước là lĩnh vực hoạt động do các tổ chức thuộc hệ thống tổ chức nhà nước thực hiện.

Đây là loại hình dịch vụ phi lợi nhuận nhưng nó đóng một vai trò rất quan trọng trong việc ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển do vậy việc áp dụng ISO 9000 vào quản lý hành chính là nhằm xây dựng một hệ thống hoạt động có chất lượng

Tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
           Trong những năm qua, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp hóa và hoạt động thật sự có hiệu quả theo mục tiêu chương trình cải cách hành chính của Chính phủ, Việt Nam đã xây dựng đề án “Đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010”. Đề án xác định một trong năm mục tiêu cụ thể là: “Từng bước hiện đại hóa nền hành chính nhà nước; áp dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước; triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 vào các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước của tỉnh…”
Cùng với công cuộc cải cách hành chính thời gian qua, Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; Quyết định 118/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 144/2006/QĐ-TTg. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND các tỉnh đã xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình cải cách thủ tục hành chính, đồng thời đã thể hiện quyết tâm cao trong áp dụng ISO vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước thông qua việc dành một phần không nhỏ kinh phí từ nguồn cải cách hành chính để hỗ trợ các cơ quan hành chính nhà nước triển khai xây dựng và áp dụng ISO.
Đến nay, cả nuớc đã có 216 đơn vị được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng cấp giấy chứng nhận và đánh giá chứng nhận phù hợp yêu cầu tiêu chuẩn ISO 9001:2008. Năm 2011, các tỉnh và thành phố phấn đấu hoàn thành việc triển khai xây dựng, áp dụng và mở rộng cho 428 đơn vị. Phấn đấu đến hết năm 2013, hoàn thành việc triển khai, áp dụng và cấp chứng chỉ ISO 9001:2008 theo chỉ đạo tại Quyết định 118/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ở 100% các cơ quan, đơn vị hành chính, bao gồm các sở, ban, ngành thuộc UBND tỉnh; UBND các huyện và thành phố; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh.
Quá trình triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO trong các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn cả nuớc những năm qua đã đạt được kết quả rõ nét, đó là: Bước đầu tạo thói quen làm việc khoa học, hiệu quả hơn thông qua việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình đã xây dựng; việc tổ chức, thu thập, sắp xếp, lưu trữ các loại văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn của cơ quan cấp trên, hồ sơ tài liệu được sắp xếp ngăn nắp và có hệ thống theo từng lĩnh vực công việc. Thông qua áp dụng ISO, lãnh đạo đơn vị điều hành công việc có hiệu quả hơn nhờ thiết lập cơ chế giải quyết công việc rành mạch và thống nhất. Cán bộ, công chức được phân công trách nhiệm rõ ràng trong quá trình xử lý công việc, được đánh giá năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm khách quan hơn, thực hiện được trách nhiệm, quyền lợi của mình đúng nơi, đúng người có thẩm quyền phê duyệt. Cán bộ công chức còn được đào tạo, tập huấn nâng cao về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, được làm việc trong môi trường ngày càng tốt hơn. Việc áp dụng HTQLCL theo ISO làm giảm đáng kể hiện tượng nhũng nhiễu, gây phiền hà của cán bộ, công chức. Các thủ tục hành chính đều có quy trình xử lý công việc niêm yết công khai, minh bạch. Người dân đến cơ quan nhà nước được hướng dẫn tận tình, trả kết quả xử lý đúng hẹn. Chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và cung cấp dịch vụ hành chính công được nâng cao, tạo được lòng tin và sự hài lòng của người dân.
Tuy nhiên, những tỉnh thuộc khu vực miền núi, trình độ dân trí không đồng đều, việc thấu hiểu các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO đối với từng lĩnh vực hoạt động tại các đơn vị hiện nay còn nhiều hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của việc áp dụng. Để phát huy tốt tính ưu việt của hệ thống quản lý chất lượng, rất cần có sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo các cấp, các ngành; sự hiểu biết, thực thi tốt nhiệm vụ của cán bộ công chức và sự tham gia, giám sát chặt chẽ của nhân dân để việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO vào hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực sự có hiệu quả, góp phần đắc lực đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính tại địa phương.
Từ những kết quả trên, quá trình triển khai áp dụng ISO trên địa bàncả nuớc trong thời gian qua có những thuận lợi và khó khăn sau:
1.1 Những mặt đã đạt được
Có sự chỉ đạo hướng dẫn thực hiện của Bộ Khoa học và Công nghệ và sự quan tâm, tạo điều kiện của UBND các tỉnh trong việc triển khai thực hiện Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: chỉ đạo việc xây dựng Đề án và Kế hoạch để triển khai tổ chức thực hiện đúng thời gian tiến độ.
Ban Lãnh đạo, cán bộ, công chức cơ quan nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện ISO, trong thực hiện chú trọng nhiều ở khâu ứng dụng và xem đó là công cụ quản lý hữu hiệu trong công việc.
Các cơ quan triển khai áp dụng ISO: Thực hiện tốt về nhiệm vụ áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008, tạo điều kiện thuận lợi và phối hợp chặt chẽ với tổ chức tư vấn áp dụng ISO.
Chuyên gia tư vấn nhiệt tình, luôn đảm bảo thời gian tư vấn hợp lý cho việc hướng dẫn áp dụng, vận hành HTQLCL, đặc biệt là các quy trình manh tính hệ thống, đảm bảo cho việc duy trì và cải tiến thường xuyên hệ thống.
Phục vụ tốt cho cơ chế một cửa liên thông trong tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của tổ chức và công dân, rút ngắn thời gian công việc so với luật định như: cấp phép xây dựng,đăng kí kinh doanh, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất...
Kiểm soát tài liệu (đặc biệt là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật) và hồ sơ ( lưu giữ các tài liệu, ghi chép để minh chứng cho công việc đã làm, căn cứ để cải tiến công việc, để truy cứu trách nhiệm khi cần thiết) chặt chẽ hơn hẳn so với trước.
1.2 Những mặt chưa đạt được

Trong quá trình triển khai các đơn vị phải dành chi phí, thời gian và công sức để xây dựng, thực hiện, duy trì cải tiến liên tục; phải có sự quyết tâm và nỗ lực cao từ phía lãnh đạo cũng như cán bộ, công chức khi thực hiện; tuy nhiên một số đơn vị chưa thực sự có sự ủng hộ cao nhất của lãnh đạo cũng như sự nhiệt tình vào cuộc của cán bộ, công chức.
Nhận thức trong cán bộ, công chức về áp dụng hệ thống ISO còn mới mẻ, do vậy khi thực hiện theo một quy trình mới bắt buộc thì phải có thời gian mới đi vào nề nếp, mới vận hành theo đúng quy định.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, thay đổi liên tục khiến các thủ tục hướng dẫn, biểu mẫu cũng phải thay đổi, gây không ít khó khăn trong quá trình thực hiện.
Ban chỉ đạo công tác ISO của các cơ quan vừa phải thực hiện nhiệm vụ chuyên môn vừa kiêm nhiệm thêm các công việc của hệ thông quản lí chất lượng, thời gian tập trung chỉ đạo, kiểm tra giám sát chưa liên tục nên hiệu quả công việc áp dụng hệ thống chưa cao.
Chất lượng trong việc cung cấp dịch vụ công còn kém
Luân chuyển cán bộ, tách nhập các bộ phận, chậm ban hành chức năng – nhiệm vụ tại một số đơn vị đã ảnh hưởng đến quá trình và tiến độ triển khai
Cơ sở vật chất còn yếu kém, thói quen làm máy móc thụ động của một số bộ phận nhân viên
1.3 Giải pháp
- Thủ trưởng cơ quan ngoài việc cam kết thực hiện áp dụng hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO bằng văn bản còn phải trực tiếp chỉ đạo, tham gia, giám sát toàn bộ quá trình xây dựng, duy trì, cải tiến hệ thống quản lí chất lượng theo Tiêu chuẩn ISO.
- Kết hợp việc áp dụng hệ thống quản lí chất lượng với việc chuẩn hoá công vụ, áp dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong hoạt động thực thi công vụ để nâng cao hiệu lực hiệu, hiệu quả quản lí hành chính nhà nước một cách tốt nhất.
- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tổ chức hội thảo về chất lượng nhằm nâng cao nhận thức về hệ thống quản lý chất lượng cho lãnh đạo, cán bộ các cơ quan, đơn vị trên địa bàn các tỉnh.
- Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tiến độ triển khai xây dựng và áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO trong các cơ quan QLHCNN trên địa bàn địa phuơng.
- Cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để mọi người hiểu rõ những ưu điểm của việc áp dụng HTQLCL theo Tiêu chuẩn ISO, nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng, để họ tham gia một cách tốt nhất vào các giai đoạn của các quy trình trong HTQLCL của cơ quan QLHCNN.
Có thể khẳng định rằng, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 trong hoạt động của các cơ quan hành chính là một chủ trương đúng đắn. Với những kết quả ban đầu đạt được đã cho thấy việc áp dụng và triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO đã góp phần quan trọng trong công tác cải cách hành chính của đơn vị, hướng tới phục vụ nhân dân một cách công khai, đúng đắn và hiệu quả, xóa bỏ các quy định mang tính quan liêu, gây phiền hà cho cá nhân và tổ chức. Chúng ta cần đẩy mạnh triển khai áp dụng, mở rộng hệ thống quản lý chất lượng tại các cơ quan hành chính, hướng đến xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu lực lấy thước đo sự thoả mãn khách hàng làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả cho hoạt động của các đơn vị mà trong đó hệ thống quản lý chất lượng là một công cụ hữu hiệu, là điều kiện cần thiết cho mọi hoạt động quản lý./.
Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 trong giải quyết thủ tục hành chính.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg về áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một công cụ quan trọng hỗ trợ chuẩn hóa phương pháp làm việc tại các cơ quan hành chính nhà nước nhằm hướng tới phục nhân dân ngày một tốt hơn. Bên cạnh đó, để thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp hoạt động có hiệu lực, hiệu quả lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.


2. Quản lí trong lĩnh vực giáo dục
2.1 Những mặt đã đạt được
  Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước hết là ở giáo dục phổ thông.
Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học,  trình độ đào tạo, các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rệt về số lượng học sinh, sinh viên, khắc phục tình trạng giảm sút quy mô trong những năm từ 1996-1997 đến 2001-2002. Năm học 2000-20010, có khoảng 25,7 triệu người theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt.
Năm 2010 về cơ bản đã đạt và vượt các chỉ tiêu mà Chiến lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2011 .
Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập.
-  Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược :
Về nâng cao dân trí: Kết quả xóa mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã được duy trì, củng cố và phát huy. Chủ trương phổ cập giáo dục THCS đang được triển khai tích cực, hiện đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Một số tỉnh và thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học (bao gồm THPT, THCN và dạy nghề). Số năm đi học bình quân của cư dân 15 tuổi trở lên tăng liên tục từ 4,5 (vào năm 1990) lên 6,34 (vào năm 2000) và đến năm 2003 là 7,3. Bình đẳng giới trong giáo dục tiếp tục được đảm bảo. Đây là những thành tựu quan trọng, nhất là khi so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế và thu nhập tính theo đầu dân tương đương hoặc cao hơn nước ta .
Về đào tạo nhân lực: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 13% năm 1998 đã tăng lên trên 23% năm 2003. Chất lượng nguồn nhân lực đã có chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất nước hơn 10 năm qua có phần đóng góp rất quan trọng của đội ngũ lao động, mà tuyệt đại đa số được đào tạo ở trong nước. Nước ta cũng đã bắt đầu chủ động đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động.
Về bồi dưỡng nhân tài: việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên có năng khiếu đã được chú trọng và đạt được những kết quả rõ rệt. Nhà nước và một số ngành, địa phương đã dành một phần ngân sách để triển khai chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý v.v. ở các nước tiên tiến. Số cán bộ này, sau khi tốt nghiệp đã trở về nước công tác.
- Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn.
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã bảo đảm cho con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản. Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc. Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khơmer được dạy cả ở trường THCS.
Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập.
- Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu
Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ, toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược, nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện nay. Đặc biệt, sự tiến bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh viên cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình hình quốc tế và âm mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với nước ta thời gian vừa qua.
-  Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn
Đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đông đảo với tổng số trên một triệu người (khoảng 950.000 giáo viên, giảng viên và trên 90.000 cán bộ quản lý giáo dục), với trình độ ngày càng được nâng cao.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng miền đã được cải thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường, lớp học. Một số địa phương, một số trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
2.2 Những mặt tiêu cực .
Bên cạnh những thành tựu thi nền giáo dục Việt Nam còn có những bất cập
-  Hiện nay có rất nhiều các truường tư mở ra, từ cấp mẫu giáo đến đại học. Tuy nhiên chất lượng giảng dạy và cơ sở vật chất của một số trường gơn hẳn trường công, làm cho các bậc cha mẹ nhốn nháo chạy cho con vào những trường tốt.
- Chất lượng giảng dạy, nội dung giảng dạy vẫn chưa được cải thiện.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, ở một số trường thuộc miền núi mặc dù hệ thống trường học đã mở ra rất nhiều nhưng cơ sở vật chất vẫn còn lạc hậu

- Tình trạng chạy đua với bệnh thành tích ở nước ta lại càng ảnh hưởng rõ nét hơn, điều này làm cho nền giáo dục nước ta suy giảm nghiêm trọng.

- Chính việc làm của các cơ quan thanh tra ngành giáo dục cũng chưa phát huy hết khả năng của mình. Việc thanh tra , kiểm tra , rà soat lại hệ thống giáo dục và chất lượng giảng dạy vẫn còn chưa tốt. Việc chay chức , chạy quyền vẫn còn diễn ra phổ biến, nhất là việc tuyển dụng các giáo viên không có năng lực làm ảnh hưởng cả ngành giáo dục nước ta, trong khi đó bỏ lỡ bao nhân tai muốn cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, hoàn thành tốt nhiệm vụ trồng người hơn những người khác.

- Việc cải cách giáo dục ở nước ta diễn ra rất chậm chạp và kém hiệu quả.
 Chúng ta mới quan tâm đến bề nổi của giáo dục mà thôi, chưa quan tâm nhiều đến chất lượng dạy và học.

2.3 Giải pháp phát triển giáo dục ở nước ta.
Một là, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cải cách hành chính, bảo đảm bộ máy quản lý của Nhà nước thật tinh gọn, không chồng chéo; thực hiện 'một cửa' ở tất cả các cấp quản lý hành chính từ trung ương đến địa phương.
Hai là, đầu tư trí tuệ, tập trung tâm lực xây dựng các chế tài hành chính đủ sức mạnh, hợp lòng dân và kiên quyết loại bỏ những cán bộ, công chức thực hiện không đúng chức năng, chức trách, nhiệm vụ; có biểu hiện cơ hội, thoái hóa, biến chất, vi phạm nguyên tắc tổ chức.
Ba là, các cấp ủy đảng cần chú trọng giáo dục cán bộ, đảng viên về đức tính thật thà, trung thực, giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng của Đảng, một lòng một dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đồng thời, tạo điều kiện môi trường bình đẳng để mỗi cán bộ, đảng viên cống hiến hết tâm đức, tài năng cho Đảng, một lòng một dạ phục vụ cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Bốn là, các cấp ủy đảng, chính quyền phải thật sự đổi mới tư duy trong tuyển dụng cán bộ cho hệ thống tổ chức chính quyền các cấp. Không nên quá nặng tư duy về bằng cấp, chứng chỉ thuần túy. Công tác tổ chức, cán bộ phải tìm hiểu kỹ người được tuyển dụng, bên cạnh bằng cấp, chứng chỉ người dự tuyển phải có bản lĩnh chính trị; tâm đức, trí tuệ; trình độ; năng lực chuyên môn; khả năng nắm bắt, ứng biến và giải quyết các vấn đề cuộc sống đặt ra; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Năm là, loại trừ tận gốc nguy cơ tham nhũng:
Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng có sự liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện quyền lực nhà nước, việc tổ chức và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân. Do đó, đấu tranh phòng, chống tham nhũng có liên quan trực tiếp đến sự ổn định chính trị, trật tự xã hội và phát triển kinh tế, liên quan mật thiết đến lòng tin của nhân dân đối với đảng cầm quyền, đối với chế độ chính trị. Vì thế, cần phải sáng suốt, bình tĩnh trong phòng, chống tham nhũng vì lợi ích chung cao nhất là góp phần vào sự phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội. Kiên quyết không để tồn tại hành vi tham nhũng mà không bị xử lý, nhưng cần tránh nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, tư duy một chiều trong phòng, chống tham nhũng.



3. Quản lí trong lĩnh vực y tế
3.1. Thuận lợi
Trong hơn 10 năm qua, công tác quản lý khu vực công trong lĩnh vực y tế ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; các dịch vụ y tế ngày một đa dạng; nhiều công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng; việc cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế đã có nhiều cố gắng hơn trước. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, phát triển và đã triển khai ứng dụng thành công nhiều thành tựu khoa học công nghệ y học tiên tiến ngang tầm với các nước trong khu vực. Ðó là các kỹ thuật mổ nội soi, siêu âm mầu, siêu âm 3 chiều, chụp và nong động mạch vành tim, cộng hưởng từ hạt nhân, phẫu thuật PHACO, thụ tinh trong ống nghiệm, ghép tủy, ghép thận... Các kỹ thuật hiện đại này đã được hỗ trợ bằng phần mềm tin học chuyên dụng.
Những năm gần đây hệ thống y tế Việt Nam được đánh giá là tiếp tục đạt những thành tựu thần kỳ. Nhiều chỉ số về sức khỏe đã đạt cao hơn so với các nước có cùng mức thu nhập. Việt Nam cũng được coi là một quốc gia có những chính sách tài chính y tế công bằng nhằm hỗ trợ người nghèo và các nhóm dễ tổn thương như trẻ em, người già, người dân tộc thiểu số... Mạng lưới cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh được mở rộng với gần 13.500 cơ sở khám chữa bệnh công lập ở 4 cấp, đạt 20,4 giường bệnh viện/10 000 dân. Khám chữa bệnh (KCB) là lĩnh vực sử dụng phần nguồn lực lớn nhất, với số nhân lực nhiều nhất (khoảng 254.949 cán bộ, nhân viên y tế, chưa tính trong khu vực tư nhân) và phần tài chính lớn nhất (chiếm 75,98% tổng chi y tế).
 Có thể nhận định rằng, đổi mới lĩnh vực y tế ở Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới các chính sách và cơ chế tài chính trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh, như các chính sách thu một phần viện phí (1989), Pháp lệnh Hành nghề y dược tư nhân (1993 và sửa đổi năm 2003), chính sách “xã hội hóa” và giao quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở y tế công  lập.
- Về cơ sở hạ tầng
  Hiện nay trên toàn Việt Nam có 876 bệnh viện, 75 khu điều dưỡng phục hồi chức năng, trên 1000 phòng khám đa khoa và  nhà hộ sinh khu vực
Mạng lưới y tế cơ sở của Việt Nam hiện nay đã có 80% số thôn bản có nhân viên y tế hoạt động, 100% số xã có trạm y tế trong đó gần 2/3 xã đạt chuẩn quốc gia, tuy nhiên sự phát triển chưa đồng đều ở mỗi cấp, vùng, miền. Việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và sự công bằng trong chăm sóc sức khoẻ người dân chưa đảm bảo.
- Về nhân lực trong ngành
 Việt Nam hiện có hệ thống các trường đại học Y, Dược phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có hàng nghìn bác sĩ và dược sĩ đại học tốt nghiệp ra trường. Ngoài ra còn có hệ thống các trường đào tạo kỹ thuật viên trung học y, dược, nha tại các địa phương. Hiện nay số lượng cán bộ nhân viên ngành y tế đã có 250.000 người, trong đó có 47.000 người có trình độ đại học các loại.
Ngành Y Tế hiện tại của Việt Nam đang được nhiều tổ chức quốc tế tài trợ vốn ODA và vốn NGO, tính đến năm 2010 Bộ Y Tế Việt Nam đang quản lý 62 dự án ODA và trên 100 dự án NGO với tổng kinh phí hơn 1 tỷ USD, các dự án được phân bố ở đều khắp các vùng miền.
Nghị quyết 46 của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính y tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công (bao gồm ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế), giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh.” Đây chính là tiêu chí cơ bản để xem xét, đánh giá cơ chế tài chính y tế: Cơ chế tài chính công bằng là cơ chế giảm được tỷ trọng nguồn chi  tư và tăng tỷ trọng nguồn chi  công trong tổng chi tiêu y tế của toàn
 Các nguồn tài chính cho bệnh viện
Công tác quản lý tài chính y tế trong thời kỳ này được thực hiện theo phương thức kế hoạch hoá tập trung. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thống nhất quản lý ngân sách đầu tư cho lĩnh vực y tế. Bộ Y tế hướng dẫn xây dựng và tổng hợp dự toán chi của các đơn vị trực thuộc. Y tế địa phương do địa phương quản lý và hầu như Bộ Y tế có rất ít thông tin về quản lý tài chính y tế ở địa phương.
Từ 2007, phương thức phân bổ ngân sách đã có những chuyển đổi theo hướng “cấp ngân sách ở mức ổn định theo giai đoạn 3 năm” - một bước chuyển theo hướng khoán ngân sách, giảm bớt những quy định liên quan tới các định mức tài chính khá cứng nhắc đối với các cơ sở bệnh viện.
Ngân sách nhà nước (NSNN) cấp cho các cơ sở cung ứng dịch vụ KCB công lập hiện nay chủ yếu là để chi cho lương và hỗ trợ cho đầu tư phát triển (tùy theo khả năng tự chủ về tài chính của bệnh viện) và một phần cho chi thường xuyên. Kinh phí hoạt động thường xuyên của các bệnh viện có khả năng tự chủ về tài chính cao chủ yếu lấy từ nguồn thu sự nghiệp (gồm viện phí và chi trả của BHYT). Nguồn đầu tư phát triển được cấp theo các quyết định đầu tư được duyệt.
Trước năm 2000, hầu hết các bệnh viện hoạt động theo cơ chế đơn vị hưởng ngân sách nhà nước với một phần ngân sách thu từ viện phí.
Cải thiện quản lý chuyên môn và nhân lực. Các bệnh viện tự chủ đã tiến hành sắp xếp lại các khoa, phòng, thực hiện các quy chế quản lý CBNV dựa vào kết quả làm việc, hạn chế các chi phí không cần thiết, khoán mức thu chi cho từng khoa phòng.
3.2. Khó khăn
Tuy nhiên, công tác quản lý khu vực công trong lĩnh vực y tế ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém.
 Hệ thống y tế chậm đổi mới, chưa thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật; chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu, giá thuốc chữa bệnh còn cao so với thu nhập của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập. Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ y tế chậm được khắc phục.
 Hình thức chi trả trước bảo hiểm y tế (BHYT) ở nước ta vẫn còn hạn chế. Ngân sách nhà nước cấp mua BHYT cho người nghèo chiếm tới 56% tổng nguồn thu BHYT; sự tham gia BHYT bắt buộc của nhóm lao động hưởng lương - nguồn đóng góp quan trọng nhất cho quỹ BHYT, còn thấp, năm 2008 mới chỉ đạt khoảng 64%. Việc chưa có một cơ chế quản lý sử dụng nguồn quỹ một cách hiệu quả, trong bối cảnh chi phí KCB ngày càng tăng, là một trong số nguyên nhân quan trọng dẫn đến bội chi quỹ.
Ở Việt Nam, công nghệ thông tin (CNTT)  y tế mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, việc sử dụng CNTT y tế hiện nay còn tản mạn, mang tính tự phát, thiếu đồng bộ và không thống nhất. Ví dụ, hiện nay có trên 30 bệnh viện trong toàn ngành y tế đã ứng dụng CNTT trong quản lý bệnh viện. Nhưng mỗi đơn vị hợp đồng với các công ty CNTT khác nhau, nên các phần mềm này không thống nhất, không thể ghép nối với nhau được và giá thành rất cao gây lãng phí và tốn kém tiền của Nhà nước. Ðặc biệt, bên cạnh các chuyên gia CNTT y tế thì đội ngũ cán bộ công chức và nhân viên trong ngành chưa được phổ cập tin học cơ sở, đây chính là khó khăn lớn nhất cho việc triển khai các ứng dụng CNTT trong ngành.
Thứ nhất, là về hiệu quả sử dụng nguồn lực (ở đây là nguồn lực của toàn xã hội). Việc đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị chưa được điều phối, đôi khi quá với nhu cầu cần thiết, không đồng bộ với đào tạo người sử dụng, có thể gây lãng phí lớn. Khoảng 20% trang thiết bị ở một số bệnh viện đa khoa tỉnh nghiên cứu không được sử dụng hết công suất. Phương thức thanh toán theo phí dịch vụ cũng tạo động cơ chỉ định sử dụng dịch vụ quá mức cần thiết, đặc biệt đối với các dịch vụ công nghệ cao, gây lãng phí nguồn lực không nhỏ.
Thứ hai, là về công bằng. Việc mở rộng hoạt động dịch vụ theo yêu cầu trong các bệnh viện công không có giới hạn và theo phương thức “góp vốn – chia lãi”, chủ yếu nhằm cung ứng dịch vụ y tế cho người có khả năng chi trả, nhất là những người thu nhập cao, có thể làm sao nhãng việc cung cấp dịch vụ cho các đối tượng có thu nhập thấp và bệnh nhân BHYT. Tình hình trên dẫn đến hậu quả đáng lo ngại là các nguồn tài chính tư  đang ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong các tổng nguồn thu của bệnh viện.
 Thứ ba, là về việc tạo động lực của cán bộ y tế. Nhân lực y tế, nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động mạng lưới KCB, cần 3 yếu tố: bao phủ, năng lực và động lực làm việc. Tạo nguồn tài chính để bảo đảm thu nhập tăng thêm cho cán bộ, nhân viên y tế là một khâu quan trọng của đổi mới cơ chế tài chính bệnh viện, góp phần tạo động lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ y tế.
 Cuối cùng, là những tác động đối với hệ thống y tế. Giao quyền tự chủ - tăng quyền và tăng trách nhiệm của các bệnh viện là một chủ trương rất đúng đắn và cần thiết, góp phần tăng thêm nguồn lực cho hoạt động và phát triển của bệnh viện. Có tình trạng chia cắt hệ thống y tế thành các đơn vị riêng rẽ, thiếu điều phối, không hợp tác, thoát ly sự quản lý của Nhà nước.
 Ngoài ra còn vấn đề tham nhũng trong ngành y tế nghiêm trọng. TTO- Tham nhũng trong ngành y tế của Việt Nam hiện ở nhiều cấp độ, có tính chất nghiêm trọng, được tìm thấy trong cả 3 lĩnh vực : quản lý nhà nước, dịch vụ tại cơ sở y tế và quản lý bảo hiểm y tế.
Trước đó, Cuộc Đối thoại về phòng chống tham nhũng lần thứ 6 với các nhà tài trợ quốc tế được tổ chức vào ngày 26/11/2009 với chủ đề phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực y tế. Mặc dù những tiêu cực trong ngành Y tế không phải là phổ biến nhưng thực tế vẫn có tồn tại ở một số ít cơ sở y tế, mà theo báo cáo tại cuộc đối thoại thì có 5 dạng sai phạm chủ yếu như: giá bán thuốc cao hơn so với giá kê khai; chưa thực hiện đúng các chế độ thanh toán viện phí và bảo hiểm y tế trong điều trị; lấy thuốc, vật tư của Nhà nước bán ra thị trường; nhũng nhiễu, vòi tiền người bệnh hoặc kê đơn thuốc không hợp lý để hưởng hoa hồng tiền bán thuốc; lạm dụng xét nghiệm trong chẩn đoán nhằm rút ruột bảo hiểm y tế và sai phạm về mua sắm trang thiết bị y tế… Giá thuốc cao gấp 300% giá kê khai.Tại một số bệnh viện, công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, quản lý tài chính, tài sản, các loại quỹ, lệ phí còn có sai phạm.
Nguyên nhân chính của những yếu kém trên là do quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập, một số chính sách về y tế không còn phù hợp nhưng chậm được sửa đổi hoặc bổ sung; việc quản lý hoạt động khám, chữa bệnh và hành nghề y dược tư nhân chưa chặt chẽ; đầu tư của Nhà nước cho y tế còn thấp, phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hợp lý, kém hiệu quả. Chưa có những giải pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực từ cộng đồng và xã hội cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, cơ cấu chưa hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng. Một số cấp uỷ đảng và chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nhiều nơi còn trông chờ vào bao cấp của Nhà nước.
3.3. Biện pháp
- Phát triển và hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch phát triển hệ thống y tế đến năm 2020 và trong những năm tiếp theo.
- Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng. Mở rộng và triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và nâng cao sức khỏe.
- Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ.
- Mở rộng hợp tác, tranh thủ sự giúp đỡ và đầu tư nguồn lực của các nước, các tổ chức quốc tế; tiếp thu các thành tựu về khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý phục vụ sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. 
- Đổi mới chính sách tài chính y tế
Đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính y tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công (bao gồm ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế), giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh.
- Xây dựng và thực hiện chính sách viện phí phù hợp trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Nhà nước có chính sách trợ giúp đối với những người có thu nhập thấp và có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Công khai minh bạch việc thu, chi viện phí cho người dân biết.
- Phát triển nguồn nhân lực
Kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Sắp xếp lại mạng lưới,  mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo,  đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung tâm đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài về y tế. Mở rộng việc đưa cán bộ có trình độ cao đi đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí nhà nước, khuyến khích du học tự túc theo các chuyên ngành đang có nhu cầu.  

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền
Nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cộng đồng và mỗi người dân trong việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đặc biệt là ở cơ sở, phải xác định việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
Đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật về y tế phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Kiện toàn hệ thống thanh tra y tế, nâng cao hiệu lực hoạt động thanh tra để thực hiện tốt quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Đổi mới toàn diện cơ chế quản lý, điều hành, tài chính, nhân lực tại các bệnh viện, nhà trường, viện nghiên cứu… trong ngành Y tế để phát huy tính năng động, sáng tạo của cơ sở trong việc huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Đổi mới và kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về dược và vệ sinh, an toàn thực phẩm.
- Đẩy mạnh xã hội hoá
Đổi mới và tăng cường hiệu quả phối hợp liên ngành trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Các loại hình y dược tư nhân hoạt động theo pháp luật là bộ phận cấu thành của hệ thống y tế. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục đầu tư; có chính sách khuyến khích về thuế, đất đai... để phát triển các cơ sở y tế ngoài công lập.
-  Nâng cao hiệu quả thông tin - giáo dục - truyền thông
Tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi ng¬ười, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng có thể chủ động phòng bệnh, xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn luyện thân thể, hạn chế những lối sống và thói quen có hại đối với sức khoẻ.
 Ðịnh hướng chiến lược quan trọng của lãnh đạo Bộ Y tế về công nghệ thông tin (CNTT) y tế là thực hiện công tác quản lý hành chính Nhà nước và quản lý chuyên môn nghiệp vụ bằng CNTT và xây dựng ngân hàng dữ liệu thống nhất cho toàn ngành.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 112/QÐTTg về việc phê duyệt Ðề án tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước.
Cùng với việc xây dựng dự án ứng dụng CNTT, các đơn vị cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực CNTT y tế. Chính đội ngũ cán bộ này sẽ giúp lãnh đạo đơn vị điều hành và duy trì tốt công tác quản lý đơn vị bằng CNTT.
Phát triển CNTT y tế sẽ thiết thực nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước về y tế, nâng cao hiệu quả công tác phòng bệnh và chữa bệnh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.

- Tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực y tế.
Phó Thủ tướng giao Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu những kinh nghiệm, khuyến nghị được nêu tại Đối thoại để tiếp thu, vận dụng phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của Việt Nam. Từ đó, tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực y tế.
Từ thực trạng này, các báo cáo đề xuất nhiều giải pháp ngăn chặn tham nhũng trong lĩnh vực y tế cả trước mắt và lâu dài./.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUAN TÂM ĐẾN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TRONG KHU VỰC CÔNG CỦA NƯỚC TA
Nguyên nhân cần phải quan tâm tới quản lý chất lượng trong khu vực công ở nước ta.
- Trong điều kiện cạnh tranh hiện tại và tương lai gần , các cơ quan hành chinh nhà nước muốn tồn tại và phát triển thì buộc phải thay đổi quan điểm.
Từ việc tư duy hành động theo chiến thuật sang tư duy chiến lược , phải xác định mục tiêu dài hạn, con đường đi đến mục tiêu và năng lực cạnh tranh để có thể đạt được mục tiêu. Để thực hiện quan điểm đó thì việc quản lý đầu ra của sản phẩm là một trong những nhân tố quan trọng trong việc tổ chức đạt được mục tiêu của mình, và một trong những phương thức quan trọng để quản lý chất lượng được tốt thì cần có hệ thống quản lý chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Ngoài các doanh nghiệp, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp, các cơ quan hành chính nhà nước cũng cần được quan tâm. Mới đây ngày 20 tháng 6 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 144/2006/QĐ-TTg về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước với mục đích từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý dịch vụ công. Việc ban hành và thực hiện Quyết định này của Thủ tướng như một biện pháp của Chính phủ trong nỗ lực cải cách hành chính nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội dựa trên những kinh nghiệm của quốc tế trong lĩnh vực quản lý chất lượng. Điều này cho thấy hoạt động quản lý chất lượng ở Việt Nam nói chung và quản lý khu vực công nói riêng đang có những bước hội nhập quốc tế mạnh mẽ và có chiều sâu. Đó là điều bắt buộc cho quản lý nhà nước nói chung quản lý khu vực công nói riêng những thay đổi nhằm có những bước chuyển mình mới để đạt được những mục tiêu định hướng.
Hoạt động quản lý chất lượng ở Việt Nam đã có bề dày hơn nửa thế kỷ. Trong thời gian đó, hoạt động này đã có những đóng góp nhất định cho phát triển kinh tế xã hội. Nhưng nhìn chung hoạt động quản lý còn ở mức thấp và chậm so với mặt bằng chung trong khu vực và trên quốc tế do vậy hiệu quả quản lý chưa có những đóng góp thật sự đáng kể cho quản lý khu vực công. Hoạt động quản lý chất lượng còn đang ở mức độ hội nhập quốc tế, vì vậy còn có những thử nghiệm và còn những sai xót không tránh khỏi. Trong khi đó trên thế giới hoạt động quản lý bằng các phương thức quản lý tiên tiến mới đã và đang mang lại những thành công to lớn cho không chỉ nền kinh tế của đất nước họ mà còn được áp dụng trong việc quản lý khu vực công và cũng mang lại những hiệu quả to lơn trong hoạt động quản lý nhà nước. Vì vậy mà việc quản lý chất lượng không chỉ áp dụng trong các doanh nghiệp hay nền kinh tế đơn thuần ma còn cần áp dụng các phương thức quản lý chất lượng ấy cho hoạt động quản lý khu vực công ở nước ta để góp phần đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.


- Hiện nay vị thế của chất lượng trong xu thế cạnh tranh toàn cầu.
Các tổ chức trên thế giới hiện nay đang phải đối đầu với thách thức “ chất lượng”. Quá trình toàn cầu hóa, tính cạnh tranh và nhu cầu ngày càng tăng đã và đang làm thay đổi quy luật “cuộc chơi” trên thị trường. Chât lượng không còn là vấn đề về mặt kĩ thuật đơn thuần mà nó đã trở thành vấn đề mang tính chiến lược hàng đầu liên quan đến sự sống còn của tất cả các tổ chức nói chung trong đó có các tổ chức thuộc khu vực quản lý công. Để cải thiện tình trạng quản lý chất lương khu vưc công thì viêc bắt buộc đối với các nhà hoạch định chiến lược công đó là có  những bộ tiêu chuẩn quản lý trong khu vực công, hệ thống quản lý chất lượng sẽ giúp cho các quyết định, các quá trình sử dụng nguồn lực trong khu vực công có hiệu quả hơn. Các chính sách phân bổ chi tiêu có thể hợp lý hơn và mang lại hiệu quả xã hội cũng như hiệu quả kinh tế góp phần làm giảm thất thoát hay có những quyết định khi ban hành tuân thủ đúng tiêu chuẩn mang lại hiệu lực trong thực tế.
-   Hiện nay tình trạng quản lý tại các nước đang phát triển còn rất yếu kém so với mặt bằng chung trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Không chỉ ở trong khu vực tư như các doanh nghiệp mà trong quản lý khu vực công thì việc đưa ra các bộ quy tắc quản lý công việc sự vụ trong khu vực công là cực kì cần thiết. Bởi lẽ, trong bối cảnh quốc tế đã đưa ra các phương thức quản lý chất lượng hiệu quả và đã có những thành công nổi bật thì các nước đang phát triển trong đó có nước ta thì việc áp dụng quản lý chất lượng dường như còn đang rất chậm chạp và khá khó mới. Một số đặc điểm của các tổ chức trong khu vực công ở nước ta đó là thành công ở các hoạt động tác nghiệp quan trọng lại phụ thuộc vào kĩ năng và kiến thức của một số ít người. Những người này thường không được chia sẻ và có kiến thức theo dõi và giám sát các hoạt động vào mọi thời điểm để kiểm soát những biến động, hỗn tạp về mặt chất lượng.  Các tổ chức thiếu một nề nếp quản lý chức năng và có hệ thống tiêu chuẩn hóa. Chính vì vậy việc áp dụng hệ thống quản lý tiêu chuẩn quản lý chất lượng trong khu vực công càng cần thiết hơn nữa.
-        Tình hình quản lý chất lượng tại Việt Nam
Quản lý chất lượng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Trước hết phải thấy rằng quản lý nhà nước về chất lượng là hoạt động tổng hợp mang tính kĩ thuật , kinh tế xã hội có mục tiêu biến đổi theo thời gian  và thông qua các cá thể. Mục tiêu quản lý chất lượng nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa, hiệu quả sản xuất. Đối với khu vực công thì có thể thấy hệ thống quản lý chất lượng chưa thực sự mang lại hiệu quả. Mặc dù nhà nước đã đưa ra các chính sách nhằm thúc đẩy hệ thống quản lý chất lượng cả về chính sách kinh tế, lẫn pháp luật nhung thực tiễn thì việc áp dụng lại là môt dấu hỏi lớn.
Việc nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp , bản thân việc thực hiện các hoạt động quản lý chất lượng tại các cơ quan hành chính  nhà nước cũng là một tấm gương khác cho tổ chức làm theo. Khi vận dụng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống quản lý chất lượng vào giải quyết các công việc sự vụ trên thực tế nó đã mang lại hiệu quả  chưa thât sự thiết thực.
-  Vai trò, tầm quan trọng của hệ thống quản lý chất lượng
Quản lý một tổ chức, một doanh nghiệp dù trong số bất kì lĩnh vực nào hay với quy mô như thế nào thực chất là ta phải quản lý một hệ thống bao gồm nhiều quá trình, nhiều hoạt động liên quan tới nhau, để biến các yếu tố đầu vào( nguồn lực của tổ chức) thành các kết quả ở đầu ra ( các sản phẩm, dịch vụ hoặc tiện ích thiết yếu cho xã hội).Vì vậy để đạt những kết quả tốt ở đầu ra cần thiết phải có sự quản lý và kiểm soát  một cách hệ thống các nguồn lực và các quá trình nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là:
+ Khai thác tốt tiềm năng, sử dụng hợp lý, hiệu quả tiết kiệm nhất các nguồn lực.
+ Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và dịch vụ thỏa mãn tối đa nhu cầu của xã hội.
+ Giảm đến mức thấp nhất chi phí sản xuất.
+ Đảm bảo an toàn đối với con người và con người để góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững.
-        Quản lý chất lượng
+ Mục đích: khai thác mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý và hiệu quả và tiết kiệm mọi nguồn lực của tổ chức, tiết kiệm thời gian và giúp tổ chức phát triển bền vững.
+ Mục tiêu: nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm uy tín của tổ chức chất lượng dịch vụ công và mang lại sự an toàn cho môi trường, xã hội và con người.
Để quản lý hệ thống chất lượng nhằm những mục đích và mục tiêu như trên chúng ta không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm hoặc năng khiếu bẩm sinh mà phải có các phương pháp quản lý khoa học, các hệ thống quản lý đó phải được thiết lập và vận hành theo nguyên tắc nhất định.
Một hệ thống quản lý đồng bộ  được cam kết tốt sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp từ các nguồn lực của tổ chức thành một khối thống nhất, làm cho chúng gắn bó hữu cơ, hướng về mục tiêu của tổ chức và đáp ứng nhu cầu của xã hội và tổ chức thông qua đó tổ chức có thể đạt được mục đích và mục tiêu kinh tế và chính trị.
- Quản lý dựa trên sự phòng ngừa, theo dõi kiểm soát bằng công cụ thống kê sẽ giúp các tổ chức, đơn vị dự báo và hạn chế các biến động trong và ngoài tổ chức trên cơ sở đó có những quyết định hợp lý.

- Trình độ dân trí ngày càng cao, những đòi hỏi của người dân ngày càng lớn đòi hỏi các cơ quan hành chính cần có những phương pháp phù hợp giải quyết những đòi hỏi của công dân

- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, yêu cầu đặt ra là phải nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lí nhà nước

 - Hiện nay trên thế giới cải cách hành chính theo mô hình “một của liên thông” đòi hỏi Việt Nam cần phải có chính sách phù hợp nhằm giải quyết các nhu cầu cụ thể. Rút ngắn thời gian thực hiện công việc, tạo điều kiện cho nhân dân gần chính phủ hơn

-  Nâng cao ‎ thức, trách nhiệm của mọi thành viên trong tổ chức đối với vấn đề chất lượng vấn đề chất lượng và thỏa mãn của khách hàng
Hệ thống văn bản quản lí chất lượng giúp mọi thành viên trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh chóng.

C. PHẦN KẾT LUẬN
Quản lí chất lượng chi phối toàn bộ các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, vì thế cải cách hành chính cũng không loại trừ trước yêu cầu cải tiến chất lượng phục vụ. Đứng trước yêu cầu đẩy mạnh, sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, một trong những yêu cầu đặt ra phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lí nhà nước. Nhà nước cần phải có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng trong việc cung ứng các dịch vụ công cũng như cũng phải có những chính sách quản lí tốt, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ lĩnh vực bảo vệ người tiêu dung./.



Sưu tầm

Nhận xét

Đăng nhận xét