Lý luận chung về nhà nước và pháp luật - đề cương ôn tập


PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC

Câu 1: Bản chất, đặc trưng, vai trò của nhà nước.

I. Bản chất nhà nước:
- Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác khẳng định: nhà nước, xét về bản chất, trước hết là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là bộ máy duy trì sự thống trị giai cấp.
- Tính giai cấp:
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện trên 3 mặt: kinh tế, chính trị, tư tưởng.
Muốn đạt được hiệu quả thống trị, giai cấp thống trị sử dụng nhà nước như là một công cụ sắc bén nhất, thông qua nhà nước, quyền lực kinh tế đủ sức mạnh để duy trì quan hệ bóc lột. Có trong tay công cụ nhà nước, giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế bảo vệ quyền sở hữu của mình, đàn áp được sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột. Trở thành giai cấp thống trị về chính trị.
Thông qua nhà nước giai cấp thống trị tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị của mình. Hợp pháp hóa ý chí của giai cấp mình thành ý chí của nhà nước, buộc các giai cấp khác phải tuân theo trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.



Nắm quyền lực kinh tế và chính trị bằng con đường nhà nước, giai cấp thống trị xây dựng hệ thống tư tưởng giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị xã hội buộc các giai cấp khác lệ thuộc về tư tưởng.
Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc vì nó củng cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Ví dụ:. Nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản: nhà nước có đặc điểm chung là bộ máy đặc biệt duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế, tư tưởng của thiểu số đối với đông đảo quần chúng lao động, thực hiện chuyên chính của giai cấp bóc lột.
Nhà nước XHCN là bộ máy củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo sự thống trị của đa số đối với thiểu số.
- Tính xã hội:
+ Một nhà nước không tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng, ý chí của các giai cấp khác trong xã hội. Ngoài tư cách là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, nhà nước còn là tổ chức quyền lực công, là phương thức tổ chức đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
+ Nhà nước giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong xã hội, đảm bảo các giá trị xã hội đã đạt được, bảo đảm xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện chức năng này hoặc chức năng khác phù hợp yêu cầu của xã hội, cũng đảm bảo lợi ích nhất định của các giai cấp trong chừng mực lợi ích đó không đối lập găy gắt với lợi ích giai cấp thống trị.
* Trong bản chất nhà nước, tính giai cấp và xã hội của nhà nước luôn luôn thống nhất với nhau.
- Trong các nhà nước khác nhau hoặc trong cùng một nhà nước, ở những giai đoạn phát triển khác nhau, tùy thuộc vào các yếu tố khách quan (tương quan lực lượng giai cấp, đảng phái...) và các yếu tố chủ quan (quan điểm, nhận thức, trình độ văn hóa...) bản chất nhà nước được thể hiện khác nhau.
Ví dụ: Trong nhà nước Việt Nam, trong điệu kiện đổi mới đất nước, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân nâng cao, nhà nước quan tâm thực hiện các chính sách xã hội nhiều hơn so với thời kỳ chiến tranh, thời kỳ bao cấp, chính sách đối với thương binh, liệt sỹ, xóa đói, giảm nghèo...

II. Đặc trưng nhà nước.
- Đặc trưng nhà nước cho phép phân biệt nhà nước với tổ chức của xã hội thị tộc bộ lạc; phân biệt với tổ chức chính trị xã hội khác.
- Đặc trưng nhà nước thể hiện vai trò, vị trí trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị.
5 đặc trưng:
1. Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa nhập với dân cư trong chế độ thị tộc nữa mà hầu như tách rời khỏi xã hội. Quyền lực công cộng này là quyền lực chung. Chủ thể là giai cấp thống trị chính trị, xã hội.
Để thực hiện quyền lực quản lý xã hội, nhà nước phải có một tầng lớp người chuyên làm nhiệm vụ quản lý, lớp người này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế duy trì địa vị giai cấp thống trị, bắt giai cấp khác phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị.
2. Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ không phụ thuộc vào chính kiến, nghề nghiệp, huyết thống, giới tính... Việc phân chianày quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng lớn nhất và dẫn đến hình thành cơ quan quản lý trong bộ máy nhà nước. Không một tổ chức xã hội nào trong xã hội có giai cấp lại không có lãnh thổ riêng của mình.
Lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng của nhà nước. Nhà nước thực thi quyền lực trên phạm vi toàn lãnh thổ. Mỗi nhà nước có một lãnh thổ riêng, trên lãnh thổ ấy lại phân thành các đơn vị hành chính như tỉnh, quận, huyện, xã,... Dấu hiệu lãnh thổ xuất hiện dấu hiệu quốc tịch.
3. Nhà nước có chủ quyền quốc gia: Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý thể hiện ở quyền tự quyết của nhà nước về chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc yếu tố bên ngoài.
Chủ quyền quốc gia có tính tối cao, không tách rời nhà nước. Thể hiện quyền lực nhà nước có hiệu lực trên toàn đất nước, đối với tất cả dân cư và tổ chức xã hội, không trừ một ai.
4. Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân. Là lực lượng đại diện xã hội, có phương tiện cưỡng chế. Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với công dân của đất nước. Các quy định của nhà nước đối với công dân thể hiện trong pháp luật do nhà nước ban hành. Mối quan hệ nhà nước và pháp luật: Không thể có nhà nước mà thiếu pháp luật và ngược lại. Trong xã hội chỉ nhà nước có quyền ban hành pháp luật, các tổ chức khác không có quyền này và chính nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống.
5. Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc: quyết định và thực hiện thu thuế để bổ sung nguồn ngân sách nhà nước, làm kinh phí xây dựng và duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật, trả lương cho cán bộ công chức. Dưới góc độ thuế nhà nước gắn chặt với xã hội và dân chứ không tách rời. Cần phải xây dựng một chính sách thuế đúng đắn, công bằng và hợp lý, đơn giản,tiện lợi.
- Định nghĩa nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa.

III. Vai trò của nhà nước:
1. Nhà nước và kinh tế.
- Nhà nước được quy định bởi kinh tế, do điều kiện kinh tế quyết định. Từ sự xuất hiện của nhà nước, bản chất, chức năng, hình thức, bộ máy nhà nước đều phụ thuộc vào đòi hỏi khách quan của cơ sở kinh tế.
- Không phụ thuộc tuyệt đối, chỉ tương đối thể hiện ở 2 phương diện:
+ Nhà nước cùng các bộ phận khác của kinh tế tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển nhanh thông qua các chính sách kinh tế có căn cứ khoa học và phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại trong chừng mực nó phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị.
Ví dụ: . Nhà nước XHCN, nhà nước Tư sản trong giai đoạn đầu phát triển xã hội tư bản: xác lập và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN đã làm cho kinh tế nước ta từ 1986 đến nay phát triển mạnh.
+ Nhà nước có thể đóng vai trò tiêu cực, cản trở sự phát triển kinh tế. Thể hiện chính sách kinh tế lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển chung của thế giới, kìm hãm sự phát triển của quan hệ sản xuất tiến bộ.
Ví dụ: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến vào giai đoạn cuối trong quá trình phát triển lịch sử.
+ Trong một thời kỳ lịch sử nhất định, nhà nước đồng thời có tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với kinh tế phụ thuộc vào khả năng nhận thức và nắm bắt kịp thời hoặc không kịp thời các phương diện khác nhau của quy luật vận động của kinh tế cũng như phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp thống trị.
2. Nhà nước và tổ chức chính trị- xã hội.
Các tổ chức chính trị của xã hội là những hình thức và phương diện bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp.
- Trong các tổ chức chính trị xã hội, nhà nước là trung tâm vì:
+ Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, là tổ chức mà quyền lực của nó bắt buộc đối với mọi người trong quốc gia thông qua pháp luật.
+ Nhà nước là công cụ sắc bén nhất của quyền lực chính trị, là tổ chức có sức mạnh cưỡng chế đủ sức thực hiện những nhiệm vụ mà không một tổ chức chính trị nào làm nổi vì nhà nước có bộ máy chuyên cưỡng chế như: Tòa án, quân đội, cảnh sát, nhà tù... nắm trong tay nguồn tài nguyên, có quyền đặt ra và thu thuế...
+ Nhà nước là tổ chức chính trị độc lập có chủ quyền, thực hiện quyển đối nội, đối ngoại độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào.
Nhà nước thực sự là trung tâm của đời sống chính trị của hệ thống chính trị xã hội, là bộ phận không thể thay thế được của bộ máy chuyên chính giai cấp, là tổ chức thực hiện chức năng quản lý xã hội hiệu quả nhất.
- Trong các tổ chức chính trị, Đảng chính trị có vai trò đặc biệt, là lực lượng có vai trò lãnh đạo, định hướng sự phát triển xã hội. Các đảng chính trị là tổ chức của các giai cấp, thể hiện lợi ích giai cấp và gồm những đại biểu tích cực nhất đấu tranh cho lợi ích giai cấp mình. Đảng chính trị cầm quyền vạch ra chính sách lớn định hướng cho hoạt động của nhà nước, kiểm tra hoạt động Đảng viên trong việc thực hiện chính sách Đảng, các đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước.
- Nhà nướcvà tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội có vai trò quan trọng tùy thuộc vào quy mô, tính chất của tổ chức đó. Quan trọng nhất: công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, mặt trận tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo của đảng. Chúng có vai trò khác nhau trong đời sống chính trị. Nhà nước và tổ chức xã hội có quan hệ chặt chẽ theo nguyên tắc hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
3. Nhà nước và chính trị.
Chính trị với tư cách hiện tượng phổ biến xác định quan hệ giai cấp, tương quan lực lượng giai cấp, là sự biểu hiện tập trung của kinh tế trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội, nó là sợi dây liên kết giữa nhà nước với cơ sở hạ tầng kinh tế với các bộ phận khác trong kiến trúc thượng tầng.
Các tổ chức chính trị đểu thông qua chính trị để tác động lẫn nhau, đồng thời tác động đến các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng như tác động đến cơ sở kinh tế của xã hội.
4. Nhà nước và pháp luật: Pháp luật là công cụ để nhà nước duy trì sự thống trị, thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Quyền lực của nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, được thực hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi pháp luật.





Câu 2Chức năng, hình thức, bộ máy nhà nước.

I. Chức năng của nhà nước.
1. Khái niệm chức năng:
- Bản chất và vai trò của nhà nước thể hiện trực tiếp trong nhiệm vụ và chức năng của nhà nước, gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ và chức năng ấy.
+ Nhiệm vụ của nhà nước là mục tiêu mà nhà nước cần đạt tới, là những vấn đề đặt ra mà nhà nước cần giải quyết.
+ Chức năng của nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
Chức năng của nhà nước là phương tiện, công cụ để thực hiện nhiệm vụ, được quy định trực tiếp bởi nhiệm vụ.
Một nhiệm vụ cơ bản chiến lược thường được thực hiện bởi nhiều chức năng. Ví dụ: nhiệm vụ chung xây dựng CNXH, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội. Một chức năng có thể là phương tiện thực hiện nhiều nhiệm vụ cụ thể, cấp bách. Ví dụ: chức năng kinh tế thực hiện nhiều nhiệm vụ như: đảm bảo tự túc lương thực trong nước và xuất khẩu, chống lạm phát, ổn định đời sống nhân dân...
- Xét ở phạm vi bao quát hơn, chức năng nhà nước được quy định một cách khách quan bởi cơ sở kinh tế- xã hội(kết cấu giai cấp).
Ví dụ: Chức năng cơ bản của kiểu nhà nước bóc lột (bảo vệ, duy trì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trấn áp phản kháng của giai cấp bị trị, tiếnhành xâm lược hòng nô dịch các dân tộc khác...) bị quy định bởi quyền tư hữu tư liệu sản xuất và chế độ bóc lột nhân dân lao động.
- Chức năng nhà nước XHCN khác chức năngnhà nước bóc lột: thể hiện ở nội dung và phương thức thực hiện. Cơ sở kinh tế của nhà nước XHCN là chế độ công hữu với tư liệu sản xuất và nhà nước là tổ chức chính trị thể hiện ý chí, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân lao động, là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các chức năng cơ bản của nhà nước luôn được bổ sung bằng những nội dung mới phù hợp với nhiệm vụ và tình hình của mỗi giai đoạn phát triển xã hội. Ví dụ: nhiệm vụ quan trọng hiện nay là xây dựng nền kinh tế phát triển- nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước. Chức năng quản lý kinh tế có nhiều nội dung mới và phương thức thực hiện năng động nhạy bén phù hợp với cơ chế quản lý mới.
- Chức năng nhà nước và chức năng cơ quan nhà nước:
+ Chức năng nhà nước là phương diện chủ yếu của cả bộ máy nhà nước mà mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Vídụ: chức năng bảo vệ pháp luật và tăng cường pháp chế thuộc về các cơ quan: Quốc Hội, Tòa án, Viện kiểm sát...
+ Chức năng của một cơ quan nhà nước là những phương diện hoạt động của cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện chức năng chung của nhà nước. Ví dụ: Tòa án thực hiện chức năng xét xử vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp. Chức năng của Viện kiểm sát là công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
2. Phân loại chức năng:
- Căn cứ vào tính chất chức năng phân thành:
+ Chức năng cơ bản
+ Chức năng không cơ bản.
-         Căn cứ vào thời gian thực hiện chức năng:
+ Chức năng lâu dài
+ Chức năng tạm thời
-         Căn cứ vào đối tượng của chức năng:
+ Chức năng đối nội (là chức năng cơ bản)
+ Chức năng đối ngoại.
2 loại chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, các chức năng đối ngoại luôn xuất phát từ việc thực hiện chức năng đối nội và phục vụ chức năng đối nội. Thực hiện tốt chức năng đối nội sẽ thuận lợi cho thực hiện chức năng đối ngoại và ngược lại.
Chức năng đối nội quan trọng và có vai trò quyết định đối với sự tồn tại của nhà nước.
3. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng:
- Hình thức thực hiện chức năng:
+ Hình thức mang tính pháp lý:
Hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật.
Tổ chức thực hiện pháp luật.
Bảo vệ pháp luật.
+ Hình thức mang tính tổ chức kỹ thuật- kinh tế- xã hội.
- Phương pháp thực hiện chức năng: 2 phương pháp : thuyết phục và cưỡng chế.
Sự khác nhau căn bản giữa nhà nước XHCN và nhà nước bóc lột: phương pháp chủ yếu của nhà nước XHCN là thuyết phục, giáo dục còn cưỡng chế chỉ được áp dụng khi thuyết phục, giáo dục không đạt kết quả và cũng chỉ với mục đích cải tạo người xấu thành người tốt có lợi ích cho xã hội, ngăn ngừa hiện tượng tiêu cực chứ hoàn toàn không mang tính chất đàn áp.
Nhà nước bóc lột: cưỡng chế là phương pháp cơ bản, được áp dụng rộng rãi mà chủ yếu là để áp bức , bóc lột nhân dân lao động.

II. Hình thức nhà nước:
- Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, là phương thức chuyển ý chí giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước.
- Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất nhà nước. Có hai loại:
1. Hình thức chính thể:
- Hình thức chính thể là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.
- Hình thức chính thể gồm 2 dạng cơ bản:
 + Chính thể quân chủ: quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước ( vua, hoàng đế...) theo nguyên tắc thừa kế.
Chính thể quân chủ được chia thành:
Chính thể quân chủ tuyệt đối: người đứng đầu nhà nước ( vua, hoàng đế...) có quyền lực vô hạn.
Chính thể quân chủ hạn chế: quyền lực tối cao được trao cho người đứng đầu nhà nước và một cơ quan cấp cap khác.
 + Chính thể cộng hòa: quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan đại diện do bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cộng hòa có 2 hình thức:
Chính thể cộng hòa dân chủ: pháp luật quy định quyền của công dân tham gia bầu cử thành lập cơ quan đại diện của nhà nước. Nhưng vấn đề này thực hiện được hoặc không thực hiện được còn phụ thuộc vào nhà nước thuộc giai cấp nào.
Chính thể cộng hòa quý tộc: quyền tham gia bầu cử để thành lập các cơ quan đại diện của nhà nước chỉ dành riêng cho giới quý tộc (dưới chế độ nô lệ và phong kiến).
2. Hình thức cấu trúc:
- Là sự tổ chức nhà nước theo đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương.
- Có 2 hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu:
+ Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có lãnh thổ toàn vẹn, thống nhất, các bộ phận hợp thành nhà nước là các đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền quốc gia và các đặc điểm của nhà nước. Có hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương. Ví dụ: Việt Nam, Lào, Trung Quốc...
+ Nhà nước liên bang: không chỉ liên bang có dấu hiệu nhà nước mà các nhà nước thành viên ở mức độ này hay mức độ khác cũng có các dấu hiệu của nhà nước, chủ quyền quốc gia. Nhà nước liên bang có 2 hệ thống cơ quan nhà nước và 2 hệ thống pháp luật. Ví dụ: Mỹ, Liên Xô cũ, Braxin...
- Có một loại hình nhà nước khác nữa là nhà nước liên minh: nhà nước liên minh chỉ ra là sự liên kết tạm thời của các quốc gia để thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục đích. Nhà nước liên minh tự giải tán. Cũng có trường hợp phát triển thành nhà nước liên bang. Ví dụ: Từ năm 1776 đếnnăm 1787, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nhà nước liên minh sautrở thành nhà nước liên bang.

III. Bộ máy nhà nước.
1. Khái niệm Bộ máy nhà nước.
- Bộ máynhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức thực hiện theo nguyên tắc tập trung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
- Bộ phận cấu thành nhà nước là cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước là tổ chức chính trị có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, bao gồm những cán bộ, viên chức nhà nước. Cán bộ, viên chức nhà nước là những con người được giao quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ, chức năng trong phạm vi luật định.
- Cơ quan nhà nước khác tổ chức xã hội:
Chỉ cơ quan nhà nước mới được nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Phạm vi thực hiện quyền lực nhà nước được pháp luật quy định chặt chẽ, là tổng thể quyền và nghĩa vụ được nhà nước giao cho, thể hiện qua việc ra quyết định có tính bắt buộc thi hành đối với các đối tượng liên quan.
- Phân loại cơ quan nhà nước.
+ Theo chức năng: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Theo vị trí, tính chất, thẩm quyền: cơ quan quyền lực, cơ quan quản lý, Tòa án, Viện kiểm sát.
2. Sự phát triển của bộ máy nhà nước qua các kiểu nhà nước trong lịch sử.
a) Tính tất yếu khách quan của sự phát triển bộ máy nhà nước.
- Bộ máy nhà nước là phạm trù năng động, luôn vận động, biến đổi để thích nghi với điều kiện khách quan của xã hội.
- Bộ máy nhà nước chịu sự quy định của yếu tố kinh tế, bản chất nhà nước, tương quan lực lượng chính trị- xã hội, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán.
- Bộ máy nhà nước chịu sự quy định của yếu tố chủ quan: quan điểm, nhận thức.
b) Quy luật phát triển của bộ máy nhà nước qua các kiểu nhà nước.
- Bộ máy nhà nước được tổ chức từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện trên cơ sở thừa kế những điểm tiến bộ của bộ máy nhà nước trước đó.
- Bộ máy nhà nước luôn được cải cách, đổi mới để thích nghi.

Câu 3Bản chất, đặc điểm của nhà nước CHXHCN Việt Nam.

I. Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam.
- Bản chất bao trùm nhất, chi phối mọi lĩnh vực đời sống nhà nước Việt Nam hiện nay từ tổ chức đến hoạt động thực tiễn là tính nhân dân của nhà nước. Điều 2- Hiến pháp 1992 quy định:" nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức".
- Như vậy, quyền lực nhà nước không thuộc một đẳng cấp, một tổ chức xã hội hoặc một nhóm người nào. Quyền lực nhà nước phải hoàn toàn thuộc về nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác mà nòng cốt là liên minh công nhân- nông dân- trí thức. Nông dân là người chủ sở hữu duy nhất toàn bộ tài sản vật chất và tinh thần của nhà nước, có quyền quản lý toàn bộ công việc của nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả công việc có liên quan đến vận mệnh đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng của toàn thể dân tộc.
Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể hiện rõ thông qua đặc điểm của nó.

II. Đặc điểm của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
1. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
- Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành đấu tranh cách mạng trải qua nhiều gian khổ đánh đuổi quân xâm lược, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tự mình thiết lập nên nhà nước của mình. Nhà nước CHXHCN VN hiện nay là nhà nước do nhân dân mà nòng cốt là liên minh công nông trí tự tổ chức thành, tự mình định đoạt quyền lực nhà nước.
- Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực hiện quyềnlực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là thông qua bầu cử, lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định:" nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình dưới hình thức trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận Hiến pháp và pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình khi có trưng cầu dân ý. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước Trung ương và địa phương và có quyền bãi nhiệm các đại biểu đó khi họ tỏ ra không xứng đáng, không làm tròn trách nhiệm. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải báo cáo công việc của mình trước cử tri.
2. Nhà nước CHXHCN VN là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em.
Tính dân tộc của nhà nước Việt Nam là vấn đề có tính lịch sử, truyền thống lâu dài, chính là nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định" nhà nước CHXHCN VN là nhà nước của các dân tộc cùng sing sống trên đất nước Việt Nam..."
Nhà nước đảm bảo để trong các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước (Quốc hội và HĐND) các thành phần dân tộc thiểu số có số đại biểu thích đáng (Điều 10 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội), các đại diện dân tộc được chú ý lựa chọn bầu giữ chức vụ trong chính quyền địa phương.
- Có các hình thức tổ chức trong các cơ quan quyền lực nhà nước để thực hiện lợi ích dân tộc và tham gia quyết định các chính sách dân tộc như Hội đồng dân tộc trong Quốc hội và các ban dân tộc trong HĐND... Các cơ quan này đặc biệt là Hội đồng dân tộc không chỉ được quyền tham gia, giám sát, kiến nghị các vấn đề dân tộc mà còn được quyền tham gia các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các phiên họp của Chính phủ bàn về chính sách dân tộc, được Chính phủ tham khảo ý kiến khi quyết định các chính sách dân tộc(Điều 94- Hiến pháp 1992).
- Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị chia rẽ dân tộc, thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Nhà nước CHXHCN VN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
- Trước đây trong điều kiện nhà nước cực quyền, mối quan hệ nhà nước và công dân là mối quan hệ lệ thuộc. Nhà nước với tính cách là bộ máy quan liêu luôn áp đặt, đè nén nhân dân. Người dân bị lệ thuộc vào nhà nước, các quyền tự do, dân chủ bị hạn chế. Quyền thì ít nhưng nghĩa vụ thì lại nhiều. Trước nhà nước, người dân chỉ thấy bổn phận và nghĩa vụ mà không có quyền đòi hỏi.
- Ngày nay, khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mối quan hệ giữabộ máy nhà nước và công dân đã thay đổi, công dân có đầy đủ các quyền tự do, dân chủ trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời công dân cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa vụ trước nhà nước. Về phần mình, nhà nước XHCN cũng tôn trọng các quyền tự do dân chủ của công dân, ghi nhận đảm bảo cho các quyền tự do được thực hiện đầy đủ.
- Mối quan hệ nhà nước và công dân được xác lập trên cơ sở tôn trọng lợi ích giữa các bên. Luật pháp không chỉ quy định địa vị pháp lý của công dân mà còn buộc các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và đưa ra các đảm bảo thực tế cho các quyền ấy, tránh mọi nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách.
4. Tính chất dân chủ rộng rãi của nhà nước CHXHCN VN, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế- xã hội.
- Dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của thời đại mà còn là đòi hỏi có tính nguyên tắc xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nước CHXHCN VN trong điều kiện hiện nay.
- Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa đường lối xây dựng kinh tế của Đảng, quy định nội dung chính sách kinh tế mới của nhà nước. Chế độ kinh tế được Hiến pháp 1992 quy định là một sự khẳng định pháp lý không chỉ đối với công cuộc cải cách kinh tế hiện nay mà còn là biểu hiện cụ thể của tính chất dân chủ của nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế.
+ "Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN..." (Điều 15 Hiến pháp 1992). Cần phải hiểu kinh tế thị trường nhiều thành phần không phải là mục đích tự thân của CNXH mà nhà nước ta chủ trương sử dụng cơ chế thị trường để tận dụng mặt tích cực của cơ chế đó (ví dụ năng suất lao động, hiệu quả sản xuât) đồng thời định hướng nó phục vụ các mục tiêu công bằng ổn định và tiến bộ xã hội, ngăn ngừa những mặt tiêu cực (nạn thất nghiệp, đầu cơ, phân hóa giàu nghèo...) mà cơ chế này luôn tiềm ẩn trước định hướng XHCN.
+ Nhà nước thừa nhận"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu tập thể làm nền tảng..." (Điều 15).
+ Nhà nước khuyến khích"... phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tê: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế, cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước nhiều dưới hình thức..." (Điều 16).
Các thành phần kinh tế được tự do, tự chủ trong kinh doanh, được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, bình đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh.
5. Nền kinh tế thị trường trong các điều kiện của CNXH không thể không làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, đòi hỏi sự quan tâm giải quyết của nhà nước và toàn xã hội.
- Nhà nước CHXHCN VN một mặt tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt chính trị, pháp lý, kinh tế để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, mặt khác quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường (có công ăn việc làm, thất nghiệp, người về hưu, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ mồ côi...) , chính trên lĩnh vực này bản chất nhân đạo của nhà nước được thể hiện rõ nét nhất.
- Giải quyết những vấn đề xã hội nhà nước CHXHCN VN xuất phát từ sự tôn trọng các giá trị của con người, từ nhân quyền có một nội dung, ý nghĩa thực sự.
6. Sức mạnh bạo lực của nhà nước XHCN không nhằm bảo vệ sự thống trị chính trị của một cá nhân nào,một nhóm người nào mà nhằm bảo vệ quyền lực của nhân dân, bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế đã được quy định trong Hiến pháp 1992.
- Để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, nhà nước CHXHCN VN không thể không áp dụng các biện pháp kiến quốc mạnh mẽ nhằm chống lại mọi âm mưu, ý đồ gây mất ổn định chính trị của đất nước, những hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến an ninh quốc gia, quyền và lợi ích của công dân.
- Bạo lực không còn là hoạt động cơ bản của nhà nước CHXHCN VN nhưng nó vẫn luôn cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội, cho an ninh xã hội và mỗi công dân song việc sử dụng nó phải theo đúng quy định của pháp luật để loại trừ mọi khả năng sử dụng bạo lực tùy tiện.
7. Chính sách đối ngoại của nhà nước CHXHCN VN thể hiện tính cởi mở, hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị.
Chính sách và hoạt động đối ngoại của nhà nước ta thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, thể hiện mong muốn hợp tác trên tinh thần hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia. Điều 14 Hiến pháp 1992 khẳng định "Nước CHXHCN VN thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độchính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi, tăng cường đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Câu 4Hình thức nhà nước CHXHCN VN.

Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực, là phương thức chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước.
Hình thức nhà nước gồm 2 yếu tố: Hình thức chính thể và hình thức cấu trúc.

I. Hình thức chính thể nhà nước CHXHCN VN.
- Hình thức chính thể là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.
- Chính thể nhà nước CHXHCN VN, thông qua nguyên tắc bầu cử bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín nhân dân đã bỏ phiếu bầu ra cơ quan đại diện của mình (Quốc hội, HĐND các cấp).
Quyền lực nhà nước tối cao thuộc về Quốc hội. Quốc hội được bầu theo nhiệm kỳ 5 năm, có quyền lập pháp, quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
- Chính thể cộng hòa dân chủ của nhà nước CHXHCN VN có nhiều đặc điểm riêng khác với cộng hòa dân chủ tư sản.
1. Chính thể CHXHCN VN qua Hiến pháp khẳng định việc tổ chức quyền lực nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị có vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội.
- Điều 4 Hiến pháp 1992: Đảng cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành quyền lợi giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.
+ Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng cho sự phát triển của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ.
+ Đảng vạch ra phương hướng và nguyên tắc nhằm xây dựng nhà nước Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân. Nhà nước có bộ máy nhà nước chính quy, quy chế làm việc khoa học, đội ngũ cán bộ nhân viên nhà nước làm việc tận tụy vì lợi ích nhân dân.
+ Đảng phát hiện bồi dưỡng đảng viên ưu tú và người ngoài đảng, giới thiệu giữ chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước thông qua bầu cử, bổ nhiệm.
+ Đảng giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, tập hợp quần chúng động viên họ tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thực hiện đường lối của Đảng và chấp hành pháp luật của nhà nước.
+ Đảng kiểm tra tổ chức của đảng trong tổ chức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết Đảng. Đảng kiểm tra cơ quan nhà nước phát hiện sai lầm, hạn chế từ đó có biện pháp khắc phục, tổng kết, rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung đường lối của mình.
2. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền XHCN nhưng có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan.
- Theo nguyên tắc này quyền lực nhà nước tập trung trong tay Quốc Hội- cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước bầu ra nhưng có sự phân công, phối hợp giữa Quốc hội và những cơ quan nhà nước khác trong thực hiện quyền lực nhà nước tạo thành cơ chế đồng bộ góp phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
+ Quốchội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, trong phạm vi quyền hạn của mình thực hiện tốt chức năng lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ, phù hợp.
+ Chính phủ là cơ quan quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Tòa án tuân theo pháp luật, phụ thuộc vào pháp luật để thực hiện chức năng xét xử.
+ Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Sự tập quyền thể hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện:
+ Nhân dân là chủ sở hữu tối cao của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước là của nhân dân, không thuộc tổ chức nào, giai cấp nào.
+ Nhân dân là chủ sở hữu tài sản vật chất và tinh thần của nhà nước.
+ Nhân dân giải quyết mọi vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng.
+ Nhân dân quản lý mọi công việc của xã hội.
- Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua bỏ phiếu, thông qua cơ quan đại diện Quốc hội, HĐND do nhân dân bầu ra.
3. Chính thể nhà nước CHXHCN VN được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở sự thống nhất giữa chế độ tập trung lợi ích nhà nước với sự trực thuộc, phục tùng của cơ quan nhà nước cấp dưới trước cơ quan nhà nước cấp trên, chế độ dân chủ tạo điều kiện cho sự sáng tạo, chủ động trong giải quyết công việc thuộc thẩm quyền của mình.
- Nội dung:
+ Các cơ quan nhà nước được thành lập bằng con đường bầu cử, bổ nhiệm.
+ Làm việc theo chế độ tập thể, cá nhân chịu trách nhiệm với phần việc được giao theo chế độ thủ trưởng.
+ Cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Khi ra quyết định cơ quan nhà nước cấp trên phải tính đến lợi ích cơ quan nhà nước cấp dưới.
+ Trong phạm vi quyền hạn của mình cơ quan nhà nước được chủ động và phát huy sáng tạo trong giải quyêt mọi công việc, cơ quan nhà nước cấp trên không được can thiệp.
4. Chính thể CHXHCN VN mang bản chât giai cấp công nhân, mục tiêu xây dựng CNXH.
- Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, lợi ích giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích giai cấp khác và nhân dân lao động.
- Nhà nước Việt Nam thực hiện dân chủ với nhân dân, nhưng chuyên chế với kẻ thù, âm mưu chống phá nhà nước.
- Hiện nay, bản chất chuyên chính vô sản được thể hiện dưới dạng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
5. Trong chính thể nhà nước CHXHCN VN, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng.
- Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của quyền lực nhà nước.
- Mặt trận tổ quốc thống nhất khối đại đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH, xây dựng xã hội giàu mạnh, công bằng, văn minh.
- Mặt trận tổ quốc đóng vai trò quan trọng trong thiết lập cơ quan nhà nước, quản lý nhà nước, xây dựng pháp luật. Trong phạm vi quyền hạn của mình có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật, có quyền đề nghị bãi miễn đại biểu không xứng đáng và tham gia vào tổ chức thực hiện quyền bãi miễn đó.
- Các tổ chức xã hội là phương tiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc, nhà nước của dân , do dân và vì dân.

II. Hình thức cấu trúc nhà nước:
- Hình thức cấu trúc nhà nước là sự tổ chức nhà nước theo đơn vị hành chính lãnh thổ và tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước trung ương và cơ quan nhà nước địa phương.
- Hình thức cấu trúc nhà nước CHXHCN VN là nhà nước đơn nhất, được Hiến pháp 1992 quy định tại điều 1: Nước CHXHCN VN là một nhà nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời.
- Nhà nước CHXHCN VN là nhà nước đơn nhất, có độc lập, chủ quyền, có một hệ thống pháp luật thống nhất, có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc.
+ Nhà nước Việt Nam có lãnh thổ thống nhất, không phân chia thành các tiểu bang hoặc cộng hòa tự trị mà chia thành các đơn vị hành chính trực thuộc. Tương ứng mỗi đơn vị hành chính là cơ quan hành chính nhà nước. Các đơn vị hành chính không có chủ quyền quốc gia và đặc điểm như nhà nước.
+ Nhà nước Việt Nam là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị có chủ quyền quốc gia, là chủ thể quan hệ quốc tế toàn quyền đối nội, đối ngoại, quyết định mọi vấn đề của đất nước.
+ Một hệ thống pháp luật thống nhất với một Hiến pháp, hiệu lực Hiến pháp và pháp luật trải rộng trên phạm vi toàn quốc. Các cơ quan nhà nước trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp, pháp luật, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
+ Nhà nước Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn và phát huy phong tục, tập quán của dân tộc.

Câu 5Bộ máy nhà nước CHXHCN VN.
- Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
- Bộ máy nhà nước CHXHCN VN là hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, được thành lập và có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước bằng hình thức, phương pháp đặc thù.
- Bộ máy nhà nước Việt Nam gồm: Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa phương.

I. Quốc hội:
- Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhà nước CHXHCN VN. Quốc hội có quyền lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng của đất nước, quyền giám sát tối cao.
Quốc hội là cơ quan nhà nước do nhân dân cả nước bầu ra, có nhiệm kỳ là 5 năm.
- Hoạt động của Quốc hội thông qua kỳ họp là chủ yếu. Quốc hội họp mỗi năm 2 lần, trong trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập kỳ họp bất thường.
- Cơ cấu: UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban.
1. UBTVQH:
- Là cơ quan thường trực của Quốc hội, do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
- Cơ cấu: Chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Tổ chức, chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội.
+ Công bố và chủ trì đại biểu Quốc hội.
+ Điều hành và phối hợp hoạt động của các Hội đồng và ủy ban.
+ Hướng dẫn và tạo điều kiện đại biểu Quốc Hội hoạt động.
+ Thay mặt Quốc hội trong hoạt động đối ngoại.
+ Giám sát việc tuân theopháp luật trong hoạt động cơ quan nhà nước.
+ Ban hành pháp luật, Nghị quyết trong phạm vi vấn đề được giao.
+ Thay mặt Quốc hội, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn Quốc hội trong thời gian giữa 2 kỳ họp.
2. Hội đồng dân tộc.
- Do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTVQH.
- Cơ cấu: Chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Nghiên cứu, kiến nghị với Quốc hội những vấn đề dân tộc.
+ Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chinh sách phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham gia phiên họp UBTVQH bàn về chính sách dân tộc, được Chính phủ tham khảo ý kiến khi thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng dân tộc còn có quyền hạn như ủy ban.
3. Các Uỷ ban (7 ủy ban).
- Do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội.
- Gồm: UB pháp luật, UB khoa học công nghệ và môi trường, UB văn hóa giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, UB quốc phòng và an ninh, UB đối ngoại, UB các vấn đề xã hội, UB kinh tế ngân sách.
- Cơ cấu: Chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên. Được bầu trong kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa.
- Nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thẩm tra dự án luật, báo cáo được Quốc hội, UBTVQH giao.
+Trình dự án luật, pháp lệnh.
+ Thực hiện quyền giám sát trong phạm vi luật định.
+ Kiến nghị những vấn đề thuộc thẩm quyền của UB.

II. Chủ tịch nước.
- Chủ tịch nước là nguyên thủ Quốc gia, được bầu ra trong số đại biểu Quốc hội theo giới thiệu của UBTVQH, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
- Nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ Quốchội.
- Nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Nhóm quyền hạn liên quan đến hoạt động đối nội, đối ngoại.
Ví dụ: cử đại sứ, triệu hồi đại sứ, tiếp nhận đại sứ.
+ Nhóm quyền hạn liên quan đến sự phối hợp các thiết chế nhà nước trong việc thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ví dụ: . Trình dự án luật, kiến nghị sửa đổi luật.
Bổ nhiệm thẩm phán, đề nghị Quốc hội bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tham gia thành lập Chính phủ.
+ Ban hành luật, Quyết định thực hiện quyền hạn của mình.
- Chủ tịch nước là biểu tượng cho sự ổn định, bền vững và thống nhất của quốc gia, thay mặt nhà nước trong hoạt động đối nội, đối ngoại.
UB quốc phòng và an ninh là cơ quan thuộc chủ tịch nước, do chủ tịch nước làm chủ tịch, phó chủ tịch và các thành viên do Quốc hội phê chuẩn trên cơ sở đề nghị của chủ tịch nước. UB có quyền huy động toàn bộ lực lượng và khả năng nước nhà để bảo vệ tổ quốc.

III. Chính phủ.
- Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN VN.
- Chính phủ do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm trước Quốc hôi, báo cáo công tác với Quốc hội, UBTVQH, chủ tịch nước.
- Gồm: Thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác thuộc chính phủ.
- Nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thống nhất quản lý mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng và an ninh, đối ngoại.
 toàn quốc.
 + Bảo đảm tính hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
 + Phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Cơ cấu: Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ.
 + Bộ trưởng và thành viên Chính phủ thống nhất quản lý trên phạm vi toàn quốc lĩnh vực, ngành mình phụ trách.
 + Trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên chính phủ ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện những văn bản đó trên toàn quốc.
 + Bộ trưởng và thành viên chính phủ báo cáo công tác trước Quốc hội, Thủ tướng về lĩnh vực ngành mình.

IV. Chính quyền địa phương.
1. Hội đông nhân dân.
- HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
- HĐND là một mắt xích quan trọng trong mối liên hệ cơ quan nhà nước với nhân dân địa phương.
- Gồm:
+ Thường trực HĐND do HĐND thành lập (chỉ từ cấp huyện trở lên).
+ Các ban thuộc HĐND: giúp nghiên cứu, thẩm tra trước báo cáo, nghị quyết( dự thảo); giúp thực hiện Nghị quyết; vận động nhân dân thực hiện Nghị quyết.
- Trên cơ sở Hiến pháp, HĐND ra quyết định về việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, đường lối thực hiện chính sách kinh tế- xã hội của địa phương, nâng cao đời sống nhân dân.
- Hoạt động thông qua kỳ họp và tổ chức kinh tế ở cơ sở.
2. UBND.
- Là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính cấp trên.
- Trong UBND có các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực hành pháp thuộc UBND và cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực cấp trên (sở, phòng, ban).
- Nhiệm vụ: + Quản ly mọi mặt của đời sống xã hộ ở địa phương.
+ Thực hiện văn bản cơ quan hành chính cấp trên và Nghị quyết của HĐND.

V. Tòa án.
- Là cơ quan xét xử đảm bảo tính pháp chế, công bằng, duy trì trật tự pháp luật và ổn định xã hội.
- Gồm: + Tòa án nhân dân tối cao.
 + Các tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
 + Các tòa án nhân dân huyện, quân, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
 + Tòa án quân sự trung ương.
 + Các tòa án quân sự quân khu.
 + Các tòa án quân sự khu vực.
- Nguyên tắc: + Công khai trong xét xử.
 + Xét xử có hội thẩm nhân dân.
 + Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, tuân theo pháp luật.
 + Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật.
 + Công dân có quyền dùng tiếng nói, chữ viết dân tộc mình.
 + Bảo đảm quyền bào chữa.
 + Xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
- Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, chánh án tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu theo giới thiệu của chủ tịch nước.
- Tòa án chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp.
- Chánh án tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTVQH.

VI. Viện kiểm sát.
- Là cơ quan thực hiện chức năng công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động cơ quan nhà nước.
- Gồm: + VKS nhân dân tối cao
 + VKS nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
 + VKS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
 + Các VKS quân sự.
-         Nguyên tắc:
+ Tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.
+ Độc lập với cơ quan nhà nước ở địa phương.
- Viện trưởng do Quốc hội bầu theo giới thiệu của Chủ tịch nước; Có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các thành viên khác.
- Hoạt động theo chế độ thủ trưởng.

Câu 6Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

- Nhà nước pháp quyền là con đẻ của Cách mạng tư sản Châu Âu thế kỷ XII, của phong trào giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế.
- Các tác giả học thuyết nhà nước pháp quyền khi xây dựng học thuyết nay đã tiếp thu các thành quả tư tưởng của các lĩnh vực có liên quan của nhân loại. Ví dụ: học thuyết pháp luật tự nhiên, học thuyết về nhân quyền, tư tưởng nhân trị...
- Hiện nay nhà nước pháp quyền đang trở thành giá trị văn minh của nhân loại mà mọi nhà nước muốn trở thành nhà nước dân chủ, nhà nước văn minh đều phải hướng tới không phân biệt chế độ chính trị.
- ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, nhà nước của dân, do dân và vì dân đã được Đại hội VII, VIII, IX của Đảng đặt sự quan tâm và mong muốn thiết lập.
- Để thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam về việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. ở Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền.

I. Những vấn đề lý luận chung về nhà nước pháp quyền.
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền.
Hiện nay, xung quanh vấn đề khái niệm nhà nước pháp quyền có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau.
- Nhà nước pháp quyền chỉ là nhà nước tồn tại trong học thuyết, là mô hình nhà nước lý tưởng được các học giả tư sản đặt ra để các quốc gia phấn đấu chứ không thể trở thành hiện thực.
- Nhà nước pháp quyền là sản phẩm, làphạm trù tư tưởng tư sản chỉ tồn tại và phù hợp với các nước phương Tây. Còn các quốc gia phương đông chỉ tiếp cận mang tính chất nghiên cứu chứ không thể vận dụng được.
- Nhà nước pháp quyền được coi là xu thế chung của thời đại, của nhiều quốc gia trên thế giới.
- Nhà nước pháp quyền là một kiểu nhà nước, một hình thức nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn liền với xã hội công dân.
* ở Việt Nam, vấn đề nhà nước pháp quyền là một vấn đề mới cả về phương diện lý luận nhận thức và thực tiễn. Chưa được nghiên cứu nhiều song mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được đềcập đến trong văn kiện Đại Hội đại biểu lần thứ VII, VIII, IX của Đảng cộng sản Việt Nam.
* Mặc dù hiện nay chưa có một quan điểm chính thống, một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về nhà nước pháp quyền nhưng ở góc độ khái quát nhất có thể hiểu: nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả nhà nước) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật- một hệ thống pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người.
2. Đặc điểm nhà nước pháp quyền.
Trên cơ sở những nghiên cứu khác nhau, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền.
- Là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, có giá trị pháp lý và có hiệu lực bắt buộc đối với mọi chủ thể trong đó Hiến pháp đóng vai trò tối thượng.
+ Hiến pháp được coi là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật. Các đạo luật, bộ luật và những văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
+ Mọi cơ quan, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
- Là nhà nước trong đó mối quan hệ nhà nước và công dân là mối quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Trong nhà nước pháp quyền, công dân có đầy đủ quyền tự do, dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời công dân cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa vụ trước nhà nước. Về phần mình, nhà nước pháp quyền cũng tôn trọng quyền tự do, dân chủ của công dân, ghi nhận và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện đầy đủ. Mối quan hệ nhà nước và công dân được xác lập trên cơ sở tôn trọng lợi ích giữa các bên.
- Là nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của công dân phải đi liền với việc đấu tranh không khoan nhượng với biểu hiện độc quyền, quan liêu, hách dịch cửa quyền và tham nhũng của những người có chức vụ trong cơ quan nhà nước và những hành vi vi phạm pháp luật khác xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân đều bị nghiêm trị.
- Là nhà nước thống nhất quyền lực có sự phân công hợp lý, rành mạch giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Là nhà nước trong đó quyền lực nhà nước được tổ chức một cách khoa học, có sự phân quyền giữa các cơ quan Lập pháp, hành pháp, tư pháp tạo thành cơ chế đồng bộ.
Quan điểm khởi thủy của tư tưởng nhà nước pháp quyền về tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước là quan niệm về sự phân quyền là yêu cầu về sự sắp xếp quyền lực và phối hợp thực thi quyền lực nhằm tạo ra sự đồng bộ, hiệu quả của quá trình sử dụng quyền lực nhà nước.
- Là nhà nước trong đó mọi công dân đều có ý thức pháp luật đúng đắn. Trên cơ sở đó mỗi công dân sẽ nhận thức được những hành vi nào được phép thực hiện, hành vi nào không được phép thực hiện, những hành vi nào buộc phải thực hiện, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách tự giác, triệt để, phát huy tính đúng đắn của nó trong thực tế.
Trên đây là những quan điểm chung của nhà nước pháp quyền- nhà nước mà mọi mặt tổ chức và hoạt động đều trên cơ sở pháp luật, chịu sự quản lý thống nhất của pháp luật, là một " cơ thể" phức tạp nhưng vận động hài hòa, đồng bộ, đảm bảo sự thống nhất cao trong tổ chức và quản lý xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đưa ra quan điểm nhà nước pháp quyền XHCN:
- Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Quyền lựcnhà nước thống nhất có sự phân công phân nhiệm và phối hợp giữa cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, công dân có nhiệm vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

II. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở ViệtNam.
- Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã làm tăng trưởng kinh tế. Đi đôi với nó là nhu cầu thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo hành lang pháp lý cho mọi chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Mở rộng và thực hiện dân chủ hóa trong đời sống xã hội, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân dân, thực hiện tốt nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy bản chất dân chủ của nhân dân và hội nhập với xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một vấn đề có tính tất yếu khách quan và tính thời đại, là mục tiêu toàn đảng, toàn dân hướng tới và phấn đấu thực hiện.
2. Nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
a) Nguyên tắc nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, biểu hiện tính chất dân chủ và tính nhân dân sâu sắc của Bộ máy nhà nước XHCN.
- Mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền của mình một cách trực tiếp thông qua việc bầu ra đại diện của mình vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước. Nhân dân có thể trực tiếp thực hiện quyền lực của mình hoặc thông qua cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra (Quốc hội, HĐND các cấp), Quốc hội, HĐND là những cơ quan đại diện cho ý chí nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
- Ngoài ra, nhân dân còn tham gia quản lý nhà nước thông qua các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế.
- Để thực hiện nguyên tắc này nhà nước cần tạo mọi điều kiện để nhân dân nâng cao trình độ văn hóa chung, đồng thời bảo đảm điều kiện vật chất và thông tin đầy đủ cho nhân dân biết tình hình mọi mặt của đất nước để họ trở thành chủ nhân thực sự của đất nước.
b) Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự tồn tại của chế độ nhà nước ta, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc quan trọng trong vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
- Hiến pháp xác định" Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành của quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" (Điều 4).
- Nội dung: + Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng.
+ Đảng giới thiệu để bầu ra cán bộ Đảng vào những cơ quan nhà nước, bồi dưỡng đào tạo để bổ nhiệm chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước.
+ Pháp luật ghi nhận các tổ chức thích hợp của Đảng trong cơ quan nhà nước để thực sự đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng như chi bộ, Đảng bộ...
+ Bảo đảm sự thể chế hóa đường lối của Đảng bằng Pháp luật.
+ Bảo đảm sự kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của cơ quan nhà nước.
- Để thực hiện vai trò của mình, Đảng cộng sản không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững manh, kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới của đất nước.
c) Nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Để khắc phục sự tùy tiện và lộng quyền của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN cần áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định trong Điều 6 Hiến pháp: Quốc hội, HĐND và các cơ quan khác của nhà nước đều phải tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thể hiện:
 + Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
 + Sự phục tùng của cấp dưới với cấp.
 + Quyền lực nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương.
 + Phân cấp quản lý.
 + Phụ thuộc 2 chiều cơ quan hành chính nhànước địa phương.
d) Nguyên tắc pháp chế XHCN.
- Đảm bảo sự họat động bằng định hướng đúng đắn của bộ máy nhà nước, phát huy hiệu quả, tăng cường hiệu lực của cơ quan quản lý nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội cần áp dụng nguyên tắc pháp chế.
- Nguyên tắc này được quy định tại Điều 12: nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
- Nội dung:
+ Việc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước phải tiến hành theo pháp luật và trên cơ sở pháp luật.
+ Mọi cán bộ, nhân viên phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và sử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
3. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
3.1. Đổi mới lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội.
- Nâng cao chất lượng đại biểu QH, quy định ứng cử, bầu cử đại biểu QH trên cơ sở phát huy dân chủ, tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách.
- Đổi mới công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp theo hướng xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, khoa học,khách quan, công bằng và nhân đạo, bãi bỏ quy định pháp luật đã lạc hậu, khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
- Làm tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định phân bổ ngân sách, quản lý việc sử dụng vốn và tài sảnnhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao.
3.2 Cải cách nền hành chính Quốc gia.
a) Cải cách thể chế hành chính.
- Hòan thành về cơ bản và vận hành thông suốt, hiệu quả thiết chế kiến trúc thượng tầng, trước hết bãi bỏ những quy định mang tính chất quan liêu, cửa quyền, gây khó khăn và sách nhiễu nhân dân, cản trở sự phát triển xã hội.
- Hòan thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo hoạt động tối đa nguồn lực từ các thành phần kinh tế.
- Đổi mới phương thức xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan, coi trọng việc sử dụng chuyên gia liên ngành, dành vai trò quan trọng cho tiếng nói doanh nghiệp và nhân dân, tăng cường công tác chỉ đạo, nâng cao ý thức kỷ luật trong thực hiện pháp luật.
b) Đẩy mạnh công cuộc cải cách bộ máy hành chính.
- Đổi mới chức năng và cải cách phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng Chính phủ thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Chính phủ và cơ quan hành chính không trực tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân biệt chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh với chức năng quản lýnhà nước về kinh tế.
- Quy định nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các bộ theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
- Phân công, phân cấp hợp lý, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, kết hợp quản lý ngành với quản lý lãnh thổ.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ để đảm bảo không chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn chậm trễ trong giải quyết các khiếu kiện của nhân dân. Tăng cương vai trò Tòa hành chính trong giải quyết khiếu kiện hành chính.
- Tách cơ quan hành chính công quyền ra khỏi tổ chức sự nghiệp, khuyến khích hoạt động không vì lợi nhuận, tạo điều kiện để tổ chức thực hiện một số dịch vụ công dưới sự giám sát của cộng đồng.
- Hiện đại hóa công tác hành chính, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin, kiện toàn bộ máy hành chính theo hướng tinh giảm biên chế, có cơ chế giải quyết thỏa đáng số người dôi ra.
c) Nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ công chức.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức với chương trình và nội dung sát hợp, chú trọng đội ngũ cán bộ phường, xã.
- Thực hiện nghiêm chỉnh quy chế tuyển dụng, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu... thanh lọc những kẻ tham nhũng trong cơ quan nhà nước, chuyển đổi công tác cán bộ công chức không đủ năng lực.
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân được tiếp xúc với cơ quan công quyền.
3.3. Cải cách tư pháp.
- Viện kiểm sát làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Tòa án: kiện tòan tổ chức hệ thống tòa án, phân định thẩm quyền tòa án các cấp một cách hợp lý, nâng cao số lượng và chất lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Thực hiện tốt nguyên tắc xét xử công khai, khách quan, giản tiện và hiệu quả.
- Cơ quan điều tra và Thi hành án: kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra và thi hành án theo nguyên tắc gọn , đổi mới; Các bản án có hiệu lực pháp luật phải được thực hiện.
- Kiện toàn tổ chức và quy chế hoạt động của các đoàn Luật sư, Công ty luật.
Cải cách tư pháp theo định hướng đổi mới công tác bắt, giam giữ, điều tra, khởi tố, xét xử, thi hành án đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
3.4 Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng.
- Tăng cường tổ chức và đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng trong cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị, cơ quan Đảng đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, chống lạm dụng chức quyền làm giàu bất chính.
- Hoàn thiện quản điểm về cơ chế, chính sách Đảng và nhà nước trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, quỹ của tổ chức, đoàn thể, quỹ do nhân dân đóng góp hoặc do nước ngoài tài trợ. Liên tục thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm kê tài sản nhà nước và các quỹ trên.
- Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và mọi công dân có trách nhiệm phát hiện và tố cáo hành vi tham nhũng, có biện pháp bảo vệ và khen thưởng những người phát hiện và tố cáo.
- Quy định trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật với cán bộ công chức có hành vi tham nhũng, lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản nhà nước.
- Nâng cao đời sống người hưởng lương bằng cách cải cách chế độ tiền lương.
- Bồi dưỡng, giáo dục nângcao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cán bộ công nhân viên nhà nước.
- Cụ thể và chi tiết hóa điều cấm đối vớicán bội công chức, đặc biệt cán bộ quản lý, cánbộ chủ chốt. Những cán bộ đứng đầu cơ quan quản lý, lãnh đạo các cấp,các ngành, doanh nghiệp nhà nước phải kê khai tài sản cá nhân và gia đình. Xử lý nghiêm minh những người có tài sản có nguồn gốc bất minh.
- Xem xét trách nhiệm hình sự và biện pháp kỷ luật với những cán bộ lãnh đạo cơ quan có hành vi tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.

Câu 7Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp.

I. Hiến pháp 1946.
* Hoàn cảnh: Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, lật đổ chế độ thực dân giành độc lập dân tộc, thủ tiêu chế độ quân chủ lập hiến, lập nên nền cộng hòa.
Hiến pháp 1946 được Quốc hội lập hiến (bầu ra ngày 06/01/ 1946) thông qua kỳ họp thứ 2 (tháng 11/ 1946). Hiến pháp xây dựng nhà nước theo mô hình dân chủ nhân dân- mô hình cơ chế nhà nước thuộc phạm trù XHCN( ở cấp độ thấp).
1. ở trung ương BMNN gồm: Nghị viện nhân dân, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao.
- Nghị viện nhân dân (thực chất là Quốc hội do hoàn cảnh kháng chiến Nghị viện nhân dân đã không được thành lập mà Quốc hội lập hiến đã thay thế Nghị viện nhân dân).
 + Là cơ quan có quyền lực cao nhất, do nhân dân trực tiếp bầu ra, có quyền giải quyết những vấn đề chung quan trọng của đất nước, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.
+ Lập ra Chính phủ, thông qua ban thường vụ để kiểm soát và phê bình Chính phủ.
- Chính phủ: là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc, do Chủ tịch nước đứng đầu.
+ Gồm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước, Nội các.(Nội các gồm: Thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng, có thể có phó thủ tướng).
+ Chính phủ chưa hoàn toàn là cơ quan chấp hành của Nghị viện, ngược lại còn có thể (qua vai trò của Chủ tịch nước) phủ quyết luật của Nghị viện (Điều 31).
+ Nội các mất tín nhiệm phải từ chức (Điều 54).
- Tòa án nhân dân tối cao: + Đứng đầu hệ thống cơ quan tư pháp gồm Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.
+ Thẩm phán do chính phủ bổ nhiệm.
+ Chưa có Viện Kiểm sát mà trong thành phần của Tòa án ngoài thẩm phán xét xử còn có thẩm phán buộc tội (công tố).
2. Chính quyền địa phương: Gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Riêng ở cấp bộ (Bắc- Trung- Nam) và huyện chỉ có Uỷ ban hành chính. HĐND do nhân dân bầu ra, Uỷ ban hành chính do HĐND bầu ra. Cấp nào không có HĐND thì do các HĐND cấp dưới bầu ra. HĐND quyết nghị các vấn đề thuộc địa phương mình. Uỷ banhành chính có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên và các Nghị quyết của HĐND, chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.

II. Hiến pháp 1959.
* Hoàn cảnh: Miền bắc chuyển sang chế độ XHCN. Bộ máy nhà nước được xây dựng lại theo hướng bộ máy kiểu XHCN mà đặc trưng là vận dụng nguyên tắc tập quyền XHCN một cách mạnh mẽ.
1. ở trung ương có: Quốc hội, chủ tịch nước, Hội động chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Chủ tịch nước không còn đồng thời là người đứng đầu nhà nước, tuy còn nghiêng nhiều về chính phủ.
- Hội đồng chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Tòa án nhân dân tối caolà cơ quan xét xử duy nhất.
- Viện kiểm sát được Quốc hội lập ra để thực hiện quyền giám sát (kiểm sát việc thực hiện theo pháp luật) đối với các cơ quan nhà nước từ Bộ trở xuống, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật để pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất và thực hiện quyền công tố.
Các cơ quan đều được Quốc Hội thành lập và chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
2. Chính quyền địa phương: ở tất cả các cấp hành chính (tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, khu phố, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, xã, thị trấn).
- HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Uỷ ban hành là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
3. Tòa án và Viện kiểm sát: Tổ chức theo lãnh thổ.
-Tòa án:
+ Gồm: Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân địa phương (tỉnh, huyện) và tòa án quân sự.
+ Tòa án nhân nhân tối cao và tòa án địa phương do Quốc hội và HĐ ND bầu và chịu trách nhiệm trước cơ quan đó.
- Viện kiểm sát:
+ Gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân địa phương (tỉnh, huyện) và viện kiểm sát quân sự.
+ Tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành, không chịu trách nhiệm trước HĐND, chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội.
Về cơ bản, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959 tuân theo mô hình XHCN song vẫn còn yếu tố dân chủ nhân dân thể hiện trong chế định chủ tịch nước và Hội đồng chính phủ. Chủ tịch nước chọn bầu trong nhân dân (không bầu trong Quốc hội) có vai trò phối hợp với các cơ quan nhà nước. Hội đồng chính phủ tuy xác định là cơ quan chất hành của Quốc hội song vẫn là cơ quan hành chính cao nhất của nhân dân (không phải của Quốc hội như sau này).

III. Hiến pháp 1980.
* Hoàn cảnh: Nhà nước được thiết kế theo đúng mô hình Bộ máy nhà nước XHCN tình hình lúc bấy giờ ở các nước XHCN (Liên Xô, các nước Đông âu, Trung Quốc). Nguyên tắc tập quyền XHCN được vận dụng một cách triệt để.
1. Trung ương.
- Quốc hội được xây dựng một cách đầy đủ hơn về mặt tổ chức cũng như thẩm quyền theo hướng cơ quan có toàn quyền"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất".
- Chế định chủ tịch nước cá nhân được thiết kế lại sao cho gắn bó với Quốc hội.
- Hội đồng nhà nước được thiếtlập là cơ quan cáo nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước CHXH CN VN.
- Hội đồng chính phủ đổi thành Hội đồng Bộ trưởng với tính chất là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hội đồng bộ trưởng do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra từ chủ tịch đến thành viên, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Hội đồng bộ trưởng- cơ quan trước đây vốn có nhiều độc lập đã lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quyền lực( về mặt lý thuyết).
2. Chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và UBND ở tất cả các cấp.
-Thay đổi quan trọng: Tăng cường vai trò HĐND ở mỗi cấp: quyết định vấn đề xây dựng địa phương; bầu ra UBND.
Trong các quyền này, HĐND hầu như toàn quyền. Vai trò cơ quanhành chính cấp trên không rõ rệt. Thật ra là có việc phê chuẩn đối với một số quyết định quan trọng như Nghị quyết về kế hoạch- ngân sách về bầu UBND song chỉ mang tính hình thức. Cơ quan hành chính cấp trên không có quyền điều động, cách chức, miễn nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp dưới, kể cả Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng với chủ tịch UBND cấp tỉnh cũng như vậy. Cách tổ chức này đã hạn chế tính chỉ đạo thống nhất trong hệ thống hành chính nhà nước- Sau được sửa đổi.
3. Tòa án- Viện kiểm sát: Về cơ bản được giữ nguyên như trước.
- Quốchội thànhlập Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
- HĐND tỉnh, huyện thành lập Tòa án nhân dân tương ứng.
- Viện kiểm sát nhân dân các cấp tổ chức theo nguyên tắc thống nhất từ trên.

IV. Hiến pháp 1992.
* Hiến pháp 1992 xây dựng lại Bộ máy nhà nước trên tinh thần đổi mới. Nguyên tắc tập quyền XHCN được nhận thức lại và vận dụng hợp lý hơn.
Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất ( thống nhất vào Quốc hội) chứ không phân chia các quyền. Mặt khác, cần thiết phải có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chứ không chỉ tập trung vào Quốc hôi còn các cơ quan khác lại không được phân định rõ ràng làm hạn chế vài trò và hiệu lực của chúng.
Bộ máy nhà nước xây dựng lại theo hướng vừa bảo đảm thống nhất quyền lực vừa phân công phân nhiệm rành mạch.
- Quốc hội vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền. Các cơ quan khác lập ra phải chịu sự giám sát, chịu trách nhiêm trước Quốc hội. Đây là các bảo đảm mặt thống nhất quyền lực.
- Sự phân công phối hợp thể hiện ở chỗ quy định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan một cách rõ ràng.
+ Quốc hội: Tập trung vào lĩnh vực lập pháp và giám sát. Đương nhiên vẫn có quyền quyết định các vấn đề cụ thể (hành pháp) song chỉ những vấn đề quan trọng.
+ Chính phủ: là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực, song là cơ quan hành chính(quản lý) cao nhất, tức độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính.
 + Tòa án- Viện kiểm sát: thực hiện chứcnăng xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật được tăng cường tính chuyên nghiệp( bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên).
 + Chủ tịch nước: phân định rõ chức trách giữa chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Chính quyền địa phương: Quy định rõ hơn mối liên hệ giữa HĐND & UBND với cơ quan nhà nước cấp trên.
 + HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương vừa chịu sự hướng dẫn và giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và sự hướng dẫn, kiểm tra của Chính phủ.
 + UBND chịu trách nhiệm trước HĐND vừa chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính cấp trên. Đặc biệt xác định rõ thẩm quyền của cấp trên trong việc điều hành Bộ máy hành chính. Chủ tịch UBND cấp trên và cao nhất là Thủ tướng có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch,phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
- Trong tổ chức chính phủ và UBND phân định rõ tính tập thể và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.
- Xác định rõ quyền giám sát của HĐND với Tòa án và Viện kiểm sát cùng cấp.

Câu 8Hệ thống chính trị Việt Nam.

I. Khái niệm hệ thống chính trị và đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam.
1.Khái niệm HTCT:
- HTCT XHCN là toàn bộ các thiết chế chính trị gắn bó hữu cơ, tác động lẫn nhau cùng thực hiện quyền lực của nhân dân lao động.
- ở Việt Nam, HTCT mới ra đời sau Cách mạng Tháng Tám với sự hình thành nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Cùng với sự phát triển của chế độ mới, HTCT nước ta ngày nay càng phát triển và hiện nay là HTCT XHCN. Mục tiêu là xây dựng một xã hội phồn vinh, dân chủ, bình đẳng, không có áp bức bóc lột.
2. Đặc điểm.
a) Là một hệ thống tổ chức chặt chẽ, khoa học trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức. Vấn đề đó được thể hiện rõ trong pháp luật nước ta, đặc biệt là Hiến pháp 1992. Tính tổ chức cao của HTCT nước ta được đảm bảo bởi các nguyên tắc chỉ đạo:+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
 + Sự lãnh đạo của Đảng.
 + Tập trung dân chủ.
+ Pháp chế XHCN.
b) Hệ thống chính trị Việt Nam có sự thống nhất về lợi ích lâu dài và mục tiêu hoạt động. Tính thống nhất của HTCT XHCN VN bắt nguồn từ sự thống nhất về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội nước ta. Các thiết chế của HTCT nước ta như Đảng, nhà nước, tổ chức xã hội tuy có vị trí ,chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.
c) HTCT XHCN VN có tính dân chủ. Dân chủ là mục tiêu, động lực, phương tiện để tổ chức vận hành HTCT.
- Các thiết chế cấu thành HTCT đều là các thiết chế của nền dân chủ XHCN. Đó là những tổ chức được thành lập ra nhằm thực hiện và đảm bảo các lợi ích, nhu cầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
- Các tổ chức trên được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, vừa đảm bảo tập trung thống nhất vừa tạo điều kiện cho các bộ phận của tổ chức phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giải quyết các công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT nước ta là quanhệ bình đẳng, mọi vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ đa dạng phức tạp đó được giải quyết theo một cơ chế dân chủ.
* Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, Đảng và nhà nước chú trọng tiến hành đổi mới mạnh về kinh tế kết hợp với sự đổi mới từng bước vững chắc HTCT. Vấn đề đổi mới HTCT đòi hỏi phải: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; cải cách và nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; kiện toàn các tổ chức xã hội.

II. Cơ cấu HTCT:
1. Đảng cộng sản Việt Nam.
- ĐCSVN, đội tiên phong giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội (Điều 4 Hiến pháp 1992).
- Trong HTCT VN, ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng được xác lập dựa trên những đặc điểm sau:
+ ĐCS VN bao gồm những người được trang bị thế giới quan của Chủ nghĩa Mác- Lênin, trên cơ sở học thuyết Mác- Lênin và sự phân tích một cách khách quan điều kiện XHCN, ĐCSVN đã đề ra đường lối, chính sách và phương hướng phát triển.
+ ĐCSVNđược chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và là bộ phận quan trọng của kho tàng tri thức lý luận của Đảng. Tác phong và nhân cách chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng kế thừa và phát huy.
+ ĐCS VN có khả năng tổ chức to lớn. Điều này đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng có khả năng tập hợp mọi tầng lớp nhân dân lao động trong việc đấu tranh cách mạng, thực hiện mục tiêu cách mạng, thực hiện đường lối chính sách của mình.
+ ĐCS VN luôn ủng hộ phong trào đấu tranh vì hòa bình, đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào công nhân trên thế giới nên uy tín của Đảng rất to lớn. Đảng nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
* Mối quan hệ Đảng và nhà nước.
- Trong mối quan hệ Đảng- nhà nước, Đảng lãnh đạo nhà nước dưới các hình thức sau:
+ Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, phương hướng phát triển cho từng giai đoạn.
+ Đảng đào tạo, bồi dưỡng đảng viên và những người ngòai Đảng có phẩm chất, năng lực để giới thiệu vào giữ các chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước thông qua cơ chế bầu cử, bổ nhiệm.
+ Đảng kiểm tra công tác tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng, kiểm tra họat động của các cơ quan nhà nước trên cơ sở đó phát hiện những sai lầm, tổng kết rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hòan thiện đường lối, chính sách của mình.
+ Đảng giáo dục đảng viên gương mẫu trong thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Phương pháp lãnh đạo của Đảng là giáo dục, thuyết phục. Đảng lãnh đạo chính trị mang tính chất định hướng.
- Trong quan hệ với Đảng, nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng bằng pháp luật và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách trong thực tiễn. Pháp luật của nhà nước cũng là một phương tiện để Đảng kiểm tra tính đúng đắn trong đường lối, chính sách của mình. Về phía mình, dựa trên đường lối, chính sách của Đảng nhà nước xây dựng pháp luật. Mọi đường lối, chính sách của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
2. Nhà nước.
Nhà nước XHCN có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, đứng ở vị trí trung tâm của HTCT vì nó cómột số điều kiện sau:
- Nhà nước XHCN là đại diện chính thức cho mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều đó tạo cho nhà nước XHCN một cơ sở xã hội rộng rãi có thể triển khai nhanh chóng và thực hiện những quyết định, chính sách của mình.
- Nhà nước XHCN là chủ thể của quyền lực chính trị, có một bộ máy đặc biệt chuyên làm chức năng quản lý. Hệ thống lực lượng vũ trang, nhà tù, tòa án là những phương tiện mà qua đó nhà nước XHCN có thể duy trì trật tự và ổn định xã hội. Chức năng quản lý của nhà nướcbao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng đảm bảo pháp luật được thực hiện trong đời sống. Nhờ có pháp luật , mọi chủ trương, chính sách của nhà nước được triển khai rộng rãi và thống nhất trên quy mô tòan xã hội.
- Nhà nước là tổ chức duy nhất trong HTCT có chủ quyền quốc gia. Đó là quyền tối cao của nhà nước trong quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Nhà nước là tổ chức duy nhất của HTCT được coi là chủ thể của công pháp quốc tế.
- Nhà nước là chủ sở hữu tối cao đối với tư liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Thông qua việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân thông qua chính sách tài chính, tín dụng, chính sách thuế... Nhà nước nắm trong tay nguồn vật chất tài chính to lớn, nó không chỉ đảm bảo cho sự họat động của nhà nước mà còn tạo điều kiện vật chất cho các tổ chức xã hội hoạt động.
Những ưu thế trên đã quy định vị trí trung tâm của nhà nước trong HTCT. Vị trí trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị xác định tầm quan trọng của cải cách nhà nước trong đổi mới HTCT. Hiện nay chúng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là yêu cầu khách quan, là con đường đưa đất nước ta trở thành một đất nước văn minh, quản lý tốt đời sống xã hội.
3. Tổ chức chính trị xã hội.
- ở nước ta nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình không chỉ bằng nhà nước mà còn thông qua các tổ chức xã hội. Với tư cách là một bộ phận cấu thành HTCT VN, các tổ chức xã hội được gọi là tổ chức chính trị xã hội và có các đặc điểm sau:
+ Được thànhlập một cách tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản nhằm thỏa mãn lợi ích các thành viên.
+ Các quyết định của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với nội bộ tổ chức đó.
+ Tài sản của tổ chức chính trị xã hội hình thành bằng sự đóng góp của thành viên, bằng tài trợ của các tổ chức quốc tế, bằng hoạt động sản xuất kinh doanh và một phần là của nhà nước.
+ Hoạt động bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, bằng biện pháp tác động xã hội.
Đó là đặc điểm chung của các tổ chức chính trị xã hội, từng tổ chức cụ thể lại có những đặc điểm riêng.
- Tổ chức chính trị xã hội gồm:
+ Mặt trận tổ quốc Việt Nam: là liên minh chính trị của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, dân tộc và tôn giáo, nhiệm vụ của MTTQVN là củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, động viên nhân dân tích cực tham gia và quản lý nhà nước.
+ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam: là tổ chức của giai cấp công nhân và cán bộ viên chức nhà nước, bảo đảm đời sống vật chất của các thành viên và bảo vệ lợi ích của họ.
+ Đoàn TNCSHCM là tổ chức rèn luyện và bồi dưỡng thế hệ trẻ, lực lượng xung kích trong lao động sản xuất và nghiên cứu khoa học.
+ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: là tổ chức của phụ nữ Việt Nam, có nhiệm vụ giáo dục thành viên hiểu rõ vai trò của họ đối với Tổ quốc, động viên họ nâng cao tinh thần phấn đấu vương lên trong mọi lĩnh vực xã hội.
+ Hội nông dân Việt Nam: là đại biểu của giai cấp nông dân , có nhiệm vụ động viên nông dân hăng hái lao động sản xuất và tham gia xây dựng, quản lý nhà nước.
- Mối quan hệ nhà nước và tổ chức xã hội.
 + Nhà nước quy định về mặt pháp lý hình thức để các tổ chức chính trị xã hội tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức chính trị xã hội hoạt động.
 + Các tổ chức chính trị xã hội là chỗ dựa của nhà nước, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối nhân dân với nhà nước.
 + Trong mối quan hệ nhà nước- tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị xã hội tham gia vào hoạt động quản lý nhà nướcbằng cách tham gia trong tổ chức bầu cử cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, đấu tranh chống hành vi vi phạm pháp luật và hành vi tham nhũng,hối lộ... trong bộ máy nhà nước thông qua kiểm tra mang tính xã hội đối với hoạt động bộ máy nhà nước.

Câu 10Các chức năng cơ bản của nước CHXHCN VN.

Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động của nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.

I. Chức năng đối nội.
1. Chức năng kinh tế.
a) Trước nhu cầu của cơ chế kinh tế mới, chức năng kinh tế của nhà nước ta nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tạo lập, đảm bảo sự ổn định và bầu không khí lành mạnh để giải phóng tất cả các tiềm năng phát triển kinh tế đất nước, khắc phục hậu quả do cuộc khủng hoảng của cơ chế kinh tế cũ và kiên quyết chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
- Xây dựng và đảm bảo các điều kiện chính trị, xã hội, pháp luật, tổ chức cần thiết cho sự bình đẳng và khả năng phát triển có hiệu quả của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
- Củng cố và phát triển các hình thức sở hữu với phương châm đảm bảo vai trò chủ đạo của sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể, tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.
- Tạo lập các tiền đề cần thiết và đảm bảo các điều kiện thuận lợi để các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần vươn tới thị trường nước ngoài, tham gia có hiệu quả vào sự hợp tác kinh tế quốc tế.
* Để thực hiện nhiệm vụ trên, nhà nước đổi mới phương thức chỉ đạo và điều hành đối với hoạt động kinh tế theo hướng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.
Hoạt động điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế của nhà nước, một mặt tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế khả năng độc lập tự giảiquyết mọi vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chủ để nhà nước thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát tòan bộ hoạt động kinh tế của đất nước trên cơ sở đó có giải pháp cụ thể, hợp lý giải quyết mọi biến động của nền kinh tế.
b) Nội dung:
- Xây dựng và thông qua các chương trình phát triển kinh tế ngắn hạn và dài hạn, trên cơ sở đó định hướng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển trong các điều kiện thị trường.
- Xây dựng, thông qua, tổ chức thực hiện một chính sách tài chính, tiền tệ hợp lý, đảm bảo giá trị đồng tiền quốc gia, góp phần ổn định thị trường vốn.
- Xây dựng và thực hiện một chính sách đầu tư hợp lý, xác định các lĩnh vực được ưu tiên đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế quốc dân thông qua chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng...
- Nhà nước áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước, chống độc quyền, hàng giả, buôn lậu qua biên giới.
- Phương pháp tác động của nhà nước đối với nền kinh tế không còn là các biện pháp hành chính mà chủ yếu là biện pháp đòn bẩy kinh tế và được thực hiện bằng pháp luật.
2. Chức năng xã hội.
- Thể hiện bản chất nhà nước- giải quyết vấn đề xã hội. Việc giải quyết vấn đề xã hội góp phần xây dựng xã hội dân chủ, văn minh, nhân đạo vì các giá trị cao cả của con người.
- Trong điều kiện hiện nay, với cơ chế thị trường việc giải quyết vấn đề xã hội nảy sinh từ cơ chế này là đòi hỏi bức thiết. Chức năng xã hội của nhà nước càng quan trọng.
- Những vấn đề xã hội đòi hỏi giải quyết trong mối quan hệ giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với tính nhân đạo của nhà nước, là trách nhiệm của mọi cơ cấu xã hội trong đó vai trò cơ bản thuộc nhà nước.
- Nội dung:
+ Nhà nước xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
+ Nhà nước xác định khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Nhà nước xây dựng và thực hiện một chính sách khoa học và công nghệ quốc gia. Xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ các ngànhkhoa học, nhà nước đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học.
+ Nhà nước đầu tư phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
+ Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân có năng lực lao động đều có quyền có việc làm, khuyến khích các thành phần đơn vị kinh tế mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thu hút ngày càng nhiều lao động bằng chính sách tài chính, kinh tế và pháp luật lao động. Nhà nước quan tâm giải quyết vấn đề thất nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ những người thất nghiệp có việc làm, thực hiện đào tạo lại ngành nghề, phát triển dịch vụ, giới thiệu việc làm.
 + Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách thu nhập hợp lý bằng việc thựchiện chế độ thuế thu nhập nhằm huy động sự đóng góp của người có thu nhập cao vào quỹ phân phối lại nhằm tạo điều kiện giúp đỡ người có thu nhập thấp, những người có hoàn cảnh khó khăn, đói nghèo.
+ Nhà nước quan tâm giải quyết, giúp đỡ người về hưu, người già cô đơn đảm bảo họ có cuộc sống ổn định.
+ Nhà nước chăm lo giải quyết vấn đề trẻ mồ côi, lang thang, người tàn tật, các tệ nạn xã hội.
* Việc thực hiện chức năng xã hội phát huy bản chất nhân đạo của nhà nước ta đồng thời kế thừa truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, góp phần thiết lập xã hội nhân bản- xã hội vì con người.
3. Chức năng đảm bảo sự ổn định an ninh, chính trị, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, bảo vệ trật tự an tòan xã hội.
- Trong sự phát triển của đất nước, nhà nước chú trọng áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm ổn định an ninh chính trị chống lại những hành vi phá hoại sự nghiệp đổi mới và âm mưu của kẻ thù gây an ninh chính trị, cản trở sự phát triển xã hội.
 + Nhà nước sử dụng sức mạnh bạo lực để ngăn ngừa, trấn áp hành vi gây mất ổn định an ninh chính trị.
 + Trấn áp mọi hoạt động của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng, lật đổ nhà nước XHCN.
 + Hoạt động trấn áp bằng sử dụng sức mạnh bạo lực của nhà nước để thực hiện trong những phạm vi, hình thức luật định.
- Nhà nước ghi nhận quyền tự do dân chủ của công dân bằng pháp luật, bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện bằng các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội để công dân bảo vệ quyền tự do dân chủ của mình, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân.
- Nhà nướcduy trì trật tự an tòan xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN bằng cách:
 + Đổi mới và hòan thiện hệ thống pháp luật.
 + Nângcao chất lượng hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật, năng lực chuyên môn và phẩm chất cán bộ công chức trong cơ quan này để đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh.
 + Giáo dục và hướng dẫn mọi công dân đấu tranh những hành vi vi phạm pháp luật.

II. Chức năng đối ngoại:
Hoạt độngđối ngoại của nhà nước là lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi, góp phần giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ trong nước.
1. Bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, ngăn ngừa mọi nguy cơ xâm lăng từ các quốc gia bên ngoài.
- Để thực hiện nhiệm vụ này, nhà nước ta chăm lo xây dựng và củng cố khả năng quốc phòng của đất nước.
 + Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân.
 + Giáo dục quốc phòng và an ninh cho tòan dân.
 + Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội.
 + Xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp kinh tế quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ, công nhân , nhân viên quốc phòng.
 + Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
2. Thiết lập , củng cố và phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Hiện nay, nước ta thực hiện chính sách mở cửa, quan hệ với tất cả các nước, mở rộng quan hệ kinh tế chính trị, văn hóa theo nguyên tắc của pháp luật quốc tế.
3. Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì trật tự thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên tòan thế giới.
Ngày nay nước ta là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, phong trào không liên kết và rất nhiều tổ chức trực thuộc Liên hợp quốc. Trong diễn đàn quốc tế và khu vực, nước ta luôn tỏ rõ thiện chí và nỗ lực hợp tác để góp phần giải quyết hòa bình nhiều vấn đề quốc tế. ảnh hưởng và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và tăng cường.
PHẦN II: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT

Câu 11Sự hình thành, bản chất, giá trị xã hội, các thuộc tính cơ bản của pháp luật.
1. Sự hình thành:
- Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy chưa có pháp luật nhưng như mọi xã hội, xã hội cộng sản nguyên thủy cũng cần đến trật tự, ổn định để tồn tại và phát triển, từ đó xuất hiện những quy tắc xử sự chung. Đây chính là những quy tắc xã hội bao gồm tập quán và các tín điều tôn giáo. Tập quán xuất hiện một cách tự phát, dần dần được cộng đồng thị tộc, bộ lạc chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung mang tính chất đạo đức và xã hội.
Quy phạm xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thủy có đặc điểm:
+ Thể hiện ý chí phù hợp với lợi ích của tòan thể thị tộc, bộ lạc.
+ Chúng điều chỉnh cách xử sự của những con người liên kết với nhau theo tinh thần hợp tác, giúp đỡ.
+ Chúng được thực hiện một cách tự nguyện theo thói quen của từng thành viên thị tộc, bộ lạc.
Tuy nhiên, vẫn có sự cưỡng chế trong trường hợp chúng bị vi phạm nhưng sự cưỡng chế không phải do một bộ máy đặc biệt của xã hội nguyên thủy thực hiện mà do toàn thị tộc tự tổ chức.
- Các quy phạm này phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nguyên thủy- xã hội chưa có tư hữu và giai cấp. Khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giai cấp có lợi ích đối lập nhau. Các tập quán không còn phù hợp vì tập quán thể hiện ýchí chung và bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc. Tầng lớp có của luôn hướng hành vi của mọi người phù hợp với lợi ích của riêng họ. Lợi dụng địa vị xã hội, họ giữ các tập quán có lợi, vận dụng, biến đổi nội dung các tập quán sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị nhằm mục đích củng cố và bảo vệ một trật tự xã hội mà họ mong muốn. Bằng sự thừa nhận của nhà nước, các quy tắc tập quán đã bị biến đổi trở thành những quy tắc xử sự chung. Con đường thứ nhất hình thành pháp luật.
- Mặt khác, những quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp mới phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội đặt ra yêu cầu phải có những quy tắc mới để điều chỉnh. Tổ chức quyền lực mới ra đời( nhà nước) đã tiến hành hoạt động xây dựng các quy tắc xử sự mới trong nhiều lĩnh vực. Hoạt động này lúc đầu còn đơn giản, nhiều quyết định của tòa án và cơ quan hành chính được coi là những quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc. Hệ thống pháp luật được hình thành dần dần cùng với việc thiết lập và hòan thiện bộ máy nhà nước. Nhà nước ban hành nhiều văn bản nhằm củng cố chế độ tư hữu và quy định đặc quyền của giai cấp thống trị trong xã hội. Con đường thứ 2 hình thành pháp luật.
Xuất phát từ nguồn gốc trên, pháp luật không thể được mọi thành viên trong xã hội có giai cấp thực hiện một cách tự giác. Vì vậy, nhà nước có một bộ máy chuyên cưỡng chế, đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh.
Quy tắc xử sự mới ra đời- quy tắc pháp luật- là quy tắc xử sự chung thểhiện ý chí của giai cấp thống trị do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
2. Bản chất.
- Bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp của nó. Biểu hiện:
+ Pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Do nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấpmình một cách tập trung, thống nhất thành ý chí của nhà nước. ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Tính giai cấp còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, sự điều chỉnh pháp luật trước hết nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ giai cấp. Pháp luật chính là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật là công cụ thể hiện sự thống trị giai cấp.
- Bản chất giai cấp của pháp luật luôn là vấn đề hàng đầu khi nghiên cứu pháp luật của một kiểu nhà nước. Sự biểu hiện tính giai cấp trong các kiểu pháp luật khác nhau không giống nhau.
+ Pháp luật chủ nô là pháp luật của giai cấp chủ nô, do giai cấp này đặt ra trước hết vì lợi ích của nó. Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền của giai cấp nô lệ.
+ Tính giai cấp của pháp luật tư sản thì không dễ nhận thấy. Trong pháp luật tư sản có nhiều quy định về quyền tự do, dân chủ, làm nhiều người lầm tưởng pháp luật tư sản là phápluật chung của xã hội, không mang tính giai cấp, do nhân dân xây dựng và vì lợi ích của nhân dân. Thực chất, pháp luật tư sản trước hết thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết phục vụ lợi ích giai cấp tư sản.
+ Trong những điều kiện lịch sử nhất định, rất có thể lợi ích của giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích chung của giai cấp khác, của cả xã hội. Ví dụ: trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lợi ích của giai cấp thống trị địa chủ phong kiến và triều đình pháp luật về cơ bản phù hợp với lợi ích của tòan dân tộc. Pháp luật ở những thời điểm lịch sử nhất định, người ta có thể tìm thấy nhiều quy định phù hợp với lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp trong xã hội.
3. Giá trị xã hội của pháp luật.
-Bên cạnh tính giai cấp không thể coi nhẹ giá trị xã hội to lớn của pháp luật. Có thể nói rằng các quy phạm pháp luật là kết quả của sự" chọn lọc tự nhiên" trong xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày, cá nhân và tổ chức có quan hệ với nhau rất đa dạng và được thể hiện trong hành vi xử sự khác nhau. Xã hội thông qua nhà nước ghi nhận những cách xử sự hợp lý khách quan, được đa số đông chấp nhận, phù hợp với lợi ích của số đông trong xã hôi. Cách xử sự này được nhà nước thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật.
Nói cách khác, những hành vi, cách xử sự phổ biến, trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua và vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, được khái quát hóa thành những quy phạm pháp luật mang tính ổn định và chuẩn mực. Dưới góc độ này quy phạm pháp luật mang tính quy luật vì nó phản ánh được chân lý khách quan, có thể coi quy phạm pháp luật là quy luật khách quan của xã hội, là chân lý khách quan. Khía cạnh này đồng thời thể hiện tính xã hội của pháp luật.
- Mặt khác, giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ, một quy phạm pháp luật vừa là thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quá trình xã hội.
* Ngày nay người ta còn thường nói đến tính dân tộc, tính mở... của pháp luật bên cạnh tính giai cấp, tính xã hội và giá trị xã hội của pháp luật.
+ Pháp luật mỗi nướcmuốn được người dân chấp nhận là của mình thì nó phải được xây dựng trên nền tảng dân tộc, thấm nhuần tính dân tộc. Nó phản ánh được những phong tục, tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý, trình độ văn minh văn hóa của dân tộc.
+ Nó cũng phải là hệ thống pháp luật mở, sẵn sàng tiếp nhận những thành tựu của nền văn minh văn hóa pháp lý của nhân loại để làm giàu cho mình.
4. Các thuộc tính cơ bản của pháp luật.
- Thuộc tính của sự vật, hiện tượng: là những tính chất, dấu hiệu riêng có của sự vật, hiện tượng.
- Thuộc tính của pháp luật: là những tính chất, dấu hiệu riêng biệt, đặc trưng của pháp luật.
- Pháp luật có 3 thuộc tính:
a) Tính quy phạm phổ biến: Quy phạm là tế bào của pháp luật.
- Cũng như các quy phạm pháp luật, các quy phạm đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các quy định có tính điều lệ đều có chứa những quy tắc xử sự chung. Nhưng khác với quy phạm trên, quy phạm pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Tính quy phạm phổ biến chính là cái để phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác. So với các quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính bao quát hơn, rộng khắp hơn. Xét về mặt nguyên tắc, pháp luật có thể điều chỉnh một phạm vi quan hệ xã hội bất kỳ nào đó. Đây chính là ưu thế của pháp luật so với các vi phạm xã hội khác.
- Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian. Việc áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết.
- Tính phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước"được đề lên thành luật". Pháp luật làm cho ý chí này có tính chất chủ quyền duy nhất trong một quốc gia. Chính quyền lực chính trị đem lại cho pháp luật tính quy phạm phổ đặc biệt- tính quy phạm phổ biến.
b) Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức.
- Tính xác định về mặt hình thức thể hiện nội dung pháp luật trong những hệ thống nhất định. Điểm rõ nét nhất của pháp luật là ở chỗ nội dung của nó được xác định rõ ràng, chặt chẽ. Tính xác định rõ ràng, chặt chẽ, nhằm đảm bảo nguyên tắc"bất cứ ai được đặt vào những điều kiện ấy cũng không thể làm khác được".
- Nội dung của pháp luật phải được quy định rõ ràng, sáng sủa, chặt chẽ, khái quát trong các khoản của mọi điều luật, trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung. Nếu các quy phạm pháp luật quy định không đủ, không rõ, không chính xác sẽ tạo ra những kẽ hở cho sự chuyên quyền, lạm dụng, những hành vi vi phạm pháp luật như tham ô, lãng phí, tham nhũng, phá hoại, vi phạm nghiêm trọng pháp chế. Nội dung của pháp luật phải được biểu hiện bằng ngôn ngữ pháp luật rõ ràng, chính xác dưới hình thức nhất định của pháp luật.
- 1 quy phạm pháp luật, 1 văn bản pháp luật có thể hiểu theo nghĩa này, cũng có thể hiểu theo nghĩa khác, trong cách viết có sử dụng những từ "vân vân" và các dấu (...) không thể gọi là 1 quy phạm, 1 văn bản có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức.
c) Tính được đảm bảo bằng nhà nước.
- Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhà nước đảm bảo thực hiện, điều đó có nghĩa là nhà nước đã trao cho các quy phạm pháp luật tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân, tức là pháp luật mới trở thành quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung.
- Tùy theo mức độ khác nhau mà nhà nước áp dụng các biện pháp về tư tưởng, tổ chức, khuyến khích, kích thích... kể cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện đúng. Khi pháp luật thể hiện đầy đủ nguyện vọng, ý chí, lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội thì nó cũng được mọi người trong xã hội tôn trọng và tự giác thực hiện, khi đó không phải dùng biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
- Tính đảm bảo bằng nhà nước có thể được hiểu dưới 2 khía cạnh.
 + Khả năng tổ chức thực hiện của nhà nước bằng cả phương pháp thuyết phục và cưỡng chế.
 + Chính nhà nước đảm bảo cho tính hợp lý, uy tín của nội dung quy phạm pháp luật, nhờ đó nó có khả năng được thực hiện trong cuộc sống một cách thuận lợi.
- Tính quyền lực nhà nước chính là yếu tố không thể thiếu bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện. Đây cũng là điều khác nhau căn bản giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.

Câu 12Hình thức, chức năng, các mối liên hệ, nguồn của pháp luật.

I. Hình thức của pháp luật.
1. Khái niệm hình thức của pháp luật.
- Hình thức của pháp luật là khái niệm dùng để chỉ ranh giới tồn tại của pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội, là các hình thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, đồng thời đó cũng là phương thức tồn tai, dạng tồn tại thực tế của pháp luật.
- Hình thức của pháp luật chỉ có giá trị khi nó có khả năng phản ánh nội dung và các dấu hiệu thuộc về bản chất của pháp luật, tức phản ánh được tính giai cấp, tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính được đảm bảo bằng nhà nước.
- Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, đặc điểm cụ thể của từng xãhội, của mỗi nước mà nhà nước chấp nhận và thừa nhận hình thức pháp luật này hay hình thức pháp luật khác.
- Hình thức pháp luật có 2 dạng: hình thức bên trong vàhình thức bên ngoài.
2. Hình thức bên trong.
Bao gồm: các nguyên tắc chung của pháp luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật.
- Các nguyên tắc chung phổ biên của pháp luật là những cơ sở xuất phát điểm cho phép mỗi công dân, cũng như cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật tự xử sự trong trường hợp cần có 1 hành vi pháp lý tương ứng với hoàn cảnh (Ví dụ: để làm luật, để áp dụng pháp luật, để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
- Các nguyên tắc pháp luật có thể được quy định trong pháp luật,nhưng cũng có thể không được quy định trực tiếp trong pháp luật mà tồn tại trong học thuyết pháp lý, trong thực tế đời sống chung của mọi người, được vận dụng như những phương châm chỉ đạo chung trong quá trình áp dụng pháp luật. Những nguyên tắc nổi tiếng như: được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, dân chủ, công bằng, bác ái...
- Trong phạm vi 1 quốc gia có 1 hệ thống pháp luật. Trong hệ thống pháp luật ấy có các ngành luật, trong các ngành luật có các chế định pháp luật, trong các chế định pháp luật có các quy phạm pháp luật.
- Ngành luật là 1 hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh 1 lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định với những phương pháp điều chỉnh nhất định. 2 yếu tố quan hệ xã hội và phương pháp điều chỉnh là 2 yếu tố để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác, trong đó yếu tố lĩnh vực quan hệ xã hội tức đối tượng điều chỉnh giư vai trò chủ đạo. Ví dụ: ngành luật dân sự, ngành luật hình sự...
- Chế định pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong cùng 1 ngành luật. Ví dụ: Luật dân sự có các chế định: quyền sở hữu, quyền thừa kế....
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận. Quy tắc xử sự chung ở đây có nghĩa là quy tắc xử sự cho tất cả các chủ thể pháp luật: các công dân, cơ quan, tổ chức. Quy phạm pháp luật gồm: giả định, quy định và chế tài.
3. Hình thức bên ngoài của pháp luật (nguồn của pháp luật).
- Khi nói đến hình thức bên ngoài của pháp luật là nói đến sự biểu hiện ra bên ngoài của nó.
- Nguồn pháp luật bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp, Văn bản pháp luật, những quy định của luật tôn giáo (ví dụ: luật hồi giáo). ở 1 số nước người ta còn coi học thuyết khoa học pháp lý cùng là nguồn pháp luật.
 + Tập quán pháp là những tập quán lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị đã được nhà nước thừa nhận, làm cho chúng trở thành những quy tắc xử sự chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong nhà nước chủ nô và phong kiến, trong nhà nước tư sản hình thức này vẫn được sử dụng nhất là những nước có chế độ quân chủ, nhưng ở phạm vi hẹp hơn so với các thời đại trước.
+ Tiền lệ pháp là các quyết định của cơ quan hành chính hoặc xét xử được thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những vụ tương tự. Hình thức này được sử dụng trong các nước chủ nô, sử dụng rộng rãi trong các nước phong kiến và hiện nay chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ. ở không ít các quốc gia các quyết định, các văn bản của tòa án tối cao về những vụ việc mà sự áp dụng pháp luật gặp khó khăn (do không có quy định pháp luật hoặc các quy định pháp luật đã quá lạc hậu) đã trở thành khuôn mẫu để các tòa án giải quyết các vụ việc tương tự sau đó. Các quyết định, các văn bản đó là án lệ.
+ Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó quy định những quy tắc xử sự chung (có tính quy phạm phổ biến đối với tất cả các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội). Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: văn bản luật và văn bản dưới luật. Từ khi nhà nước tư sản ra đời thì Hiến pháp trở thành văn bản pháp luật cơ bản nhất của nhà nước. Sau Hiến pháp đến các văn bản luật và văn bản dưới luật. Các văn bản quy phạm pháp luật nói chung đều được ban hành, sửa đổi, hủy bỏ hoặc bổ sung theo một trình tự nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể, tức là quy phạm pháp luật.
- Mỗi hệ thống pháp luật, người ta có quan niệm riêng của mình về nguồn của pháp luật , về giá trị của từng loại nguồn.
Hệ thống pháp luật trên thế giới: HTPL lục địa, HTPL Anh- Mỹ (common law), HTPL tôn giáo.
 + Những nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn pháp luật chủ yếu có giá trị nhất chính là các văn bản pháp luật: các bộ luật, đạo luật, nghị định...
 + HTPL Anh- Mỹ: nguồn quan trọng nhất và giá trị nhất là án lệ. Là luật án lệ nên các quy phạm trong luật Anh- Mỹ là một phần cơ bản của bản án hay quyết định của tòa án cấp trên.
 +Quy phạm theo luật Châu Âu lục địa chính là những quy tắc xử sự chung có tính khái quát và trìu tượng cao được chứa đựng trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
 + HTPL Anh - Mỹ: quy phạm được gắn liền với tình tiết của một vụ án cụ thể đưa ra áp dụng tương tự cho các vụ án sau này.
 + ở 1 số nước theo đạo hồi, người ta lại coi kinh Coran như 1 loại nguồn chủ yếu của pháp luật.
- ở nước ta, tập quán pháp hoặc còn gọi là luật tục chưa được nhà nước coi như 1 loại nguồn của pháp luật. Các cơ quan pháp luật không được sử dụng các tục lệ ở các địa phương, của các dân tộc khác nhau để giải quyết những tranh chấp, những vụ án dân sự, hình sự cụ thể. Kết quả là 1 số quyết định, bản án của tòa án hoặc không phát huy được hiệu lực pháp lý,hoặc bị phản ứng mạnh từ phía nhân dân địa phương, hoặc nói chung là không được thi hành đầy đủ. Điều này đặt ra cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu thấu đáo vấn đề luật tục để từ đó đề ra những giải pháp phù hợp.
 Còn về án lệ, trong thời gian mới giành chính quyền , ở nước ta, bên cạnh các văn bản của Chính phủ, nó đã từng được coi là 1 loại nguồn quan trọng của pháp luật. Tuy nhiên, càng về sau án lệ không được cọi trọng nữa. Khi nhà nước khẳng định trong Hiến pháp nguyên tắc:" khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" cũng có nghĩa là không coi án lệ là nguồn của pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế, nước ta vẫn còn án lệ nhưng theo 1 cách khác. Tòa án nhân dân tối cao vẫn thường làm công tác tổng kết việc giải quyết 1 số loại vụ việc để từ đó đề ra đường lối hướng dẫn cách giải quyết những vụ việc tương tự cho các tòa án địa phương. Có thể coi đây là 1 biến dạng của án lệ.

II. Chức năng của pháp luật:
- Chức năng của pháp luật là những mặt, những phương diện chủ yếu của pháp luật, thể hiện bản chất và giá trị xã hội của pháp luật.
- Pháp luật có 2 chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh và chức năng giáo dục (tác động vào ý thức con người).
+ Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật: thực hiện theo 2 hướng chính: 1 mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ chủ yếu trong xã hội, mặt khác pháp luật phải bảo đảm cho sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Nói cách khác, pháp luật vừa làm nhiệm vụ "trật tự hóa" các quan hệ xã hội, đưa chúng vào những phạm vi khuôn mẫu nhất định, vừa tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng mong muốn.
Chức năng điều chỉnh của pháp luật đươc thực hiện thông qua các hình thức: quy định, cho phép, ngăn cấm, khuyến khích, quy định quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các bên.
+ Chức năng giáo dục của pháp luật: được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức và tâm lý con người. Con ngườihiểu được rằng xã hội, nhà nước cần anh ta phải xử sự như thế nào khi ở hoàn cảnh mà pháp luật mô tả và nếu không xử sự như thế thì phải chịu những hậu quả bất lợi như thế nào.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội.

III. Các mối liên hệ của pháp luật.
1. Pháp luật và kinh tế.
- Pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và được quy định bởi cơ sở hạ tầng. Trong mối quan hệ pháp luật- kinh tế thì các điều kiện kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định tòan bộ nội dung và sự phát triển của nó.
- Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện:
 + Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật.
 + Tính chất của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất của các quan hệ pháp luật, mức độ, phương pháp điều chỉnh của pháp luật (ví dụ: trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chỉ cần phương pháp điều chỉnh hành chính- mệnh lệnh, nhưng trong kinh tế thị trường thì lại cần các phương pháp tự do thỏa thuận, bình đẳng, cùng có lợi...).
+ Các tổ chức và thiết chế pháp lý( cơ quan lập pháp, các thủ tục pháp lý) chịu ảnh hưởng quyết định từ phía chế độ kinh tê.
- Pháp luật tác động ngược trở lại với kinh tê.
+ Pháp luật tác động tích cực đến sự phát triển của kinh tế, đến cách tổ chức và vận hành của toàn bộ nền kinh tế, cũng như bên trong của nền kinh tế nếu nó được xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế- xã hội.
+ Pháp luật kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, hoặc 1 trong các yếu tố hợp thành của hệ thống kinh tế nếu nó không phù hợp với các quy luật kinh tê- xã hội.
+ Pháp luật kích thích kinh tế phát triển ở 1 số mặt nhưng lại kìm hãm sự phát triển của nó ở 1 số mặt khác. Đây là điều xảy ra đối với pháp luật trong thời kỳ quá độ, trong những bước chuyển.
2. Pháp luật và chính trị.
- Mối quan hệ pháp luật và kinh tế là mối quan hệ gián tiếp. Pháp luật phản ánh các yêu cầu của nền kinh tế thông qua chính trị. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế trong các mối quan hệ qua lại giữa các tầng lớp, giai cấp, dân tộc trong hoạt động của nhà nước. Chính trị gắn chặt với lợi ích kinh tế và nhu cầu phát triển của kinh tế. Pháp luật muốn phản ánh kinh tế, tác động đến kinh tế phải tiếp thu các yếu tố chính trị.
- Pháp luật vừa là biện pháp, phương tiện để thực hiện chính trị của giai cấp cầm quyền , vừa là hình thức biểu hiện của chính trị, ghi nhận yêu cầu, nội dung chính trị của giai cấp cầm quyền.
- Mối liên hệ pháp luật- chính trị biểu hiện tập trung trong mối quan hệ giữa đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và pháp luật của nhà nước. Đường lối chính trị của đảng cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo trong việc xây dựng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Pháp luật làm cho đường lối, chính sách của đảng thành ý chí chung, thành ý chí nhà nước.
3. Pháp luật và nhà nước.
- Nhà nước và pháp luật là 2 yếu tố của kiến trúc thượng tầng, đều là phương diện của quyền lực chính trị, cùng phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là tổ chức của quyền lực chính trị, pháp luật là tổng hợp các quy tắc xử sự chung của tòan xã hội.
- Nhà nước phụ thuộc vào pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng lệ thuộc vào nhà nước và không tồn tại được nếu thiếu nhà nước.
- Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật là công cụ trong tay nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội: quyền lực dựa trên cơ sở pháp luật, được thực hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi chính pháp luật (quan niệm nhà nước pháp quyền). Trong mối liênhệ nhà nước và pháp luật, không thể coi nhà nước caohơn pháp luật, nhà nước banhành pháp luật thì nhà nước có quyền quyết định sử dụng hoặc không sử dụng pháp luật, cần thấy sự lệ thuộc vào nhà nước của 2 yếu tố thuộckiến trúc thượng tầng này:
+ Pháp luật có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nhà nước.
+Nhà nước đề ra pháp luật thì chính nhà nước phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật trong tổ chức vàhoạt động của mình, không được chà đạp pháp luật.
+ Pháp luật do nhà nước bàn hành và cũng chính nhà nước bằng nhiều biện pháp khác nhau đã đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.
4. Pháp luật và các quy phạm xã hội khác.
- Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, xã hội loài người đã dùng những quy phạm xã hội: quy phạm đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm pháp luật... Quy phạm pháp luật chỉ là một trong nhiều loại quy phạm xã hội dùng để điều chỉnh quan hệ xã hội.
- Khác với các quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật chỉ tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp và sự hình thành, tồn tại và phát triển của quy phạm pháp luật luôn gắn liền với nhà nước. Pháp luật có thuộc tính riêng để phân biệt với quy phạm khác(3 thuộc tính).
- Pháp luật là 1 yếu tố điều chỉnh không thể thiếu được trong 1 nước, 1 xã hội phân chia giai cấp.
- Không nên tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, phải đánh giá đúng vai trò của nó và biết kết hợp sử dụng nó với các quy phạm xã hội khác để điều chỉnh các quan hệ xãhội có hiệu quả nhất.

Câu 13Bản chất và đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam. Các mối liên hệ.
I. Bản chất, đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam:
- Bản chất của pháp luật XHCN thể hiện trong tính giai cấp, những thuộc tính, giá trị xã hội, các chức năng của pháp luật nói chung, cũng như trong mối liên hệ pháp luật với kinh tế, chính trị, nhà nước và các quy phạm xã hội khác.
- Bản chất pháp luật XHCN với tính cách là kiểu pháp luật kiểu mới còn được thể hiện trong các đặc điểm sau:
1. Pháp luật XHCN mang tính nhân dân sâu sắc.
- Nội dung của nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác chiếm tuyệt đại đa số trong bộ phận dân cư trong xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với kiểu pháp luật bóc lột- kiểu pháp luật chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị chiếm thiểu số dân cư.
- Pháp luật XHCN đưa người dân lao động từ thân phận tôi đòi, làm thuê, lệ thuộc trong xã hội cũ trở thành những chủ nhân chân chính của xã hội mới, ghi nhận chủ quyền nhân dân, quy định một cách rộng rãi các quyền tự do dân chủ cho công dân, tạo ra sự đảm bảo cho sự thực hiện quyền đó.
2. Pháp luật XHCN khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong đó sởhữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, khuyến khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào trong nước.
3. Pháp luật XHCN tuy mang tính cưỡng chế nhưng tính cưỡng chế đó đã chứa đựng những nội dung mới, khác với các kiểu pháp luật bóc lột.
- Trong pháp luật XHCN cũng có những quy định bắt buộc, cấm đoán, dự liệu những biện pháp cưỡng chế song do nội dung của pháp luật XHCN phù hợp với lợi ích, nhu cầu của đại đa số nhân dân nên nhìn chung nó được thực hiện một cách tự giác.
- Về căn bản cưỡng chế được đặt ra đối với người vi phạm pháp luật và nó được tiến hành trong sự kết hợp chặt chẽ với giáo dục, thuyết phục, trên cơ sở giáo dục thuyết phục.
4. Pháp luật XHCN có phạm vi điều chỉnh rộng. Không những nó quy định những vấn đề như tổ chức quyền lực nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... mà còn điều chỉnh cả lĩnh vực trực tiếp tổ chức, quản lý lao động như: định mức lao động, thống kê, kiểm tra...
5. Pháp luật XHCN liên hệ mật thiết với các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là các quy tắc đạo đức, tập quán và các quy phạm của các tổ chức xã hội.
- Các tư tưởng và các quy tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp luật XHCN . Đến lượt mình, pháp luật lại củng cố và truyền bá các giá trị đạo đức đó. Giữa pháp luật XHCN và các tư tưởng, quy tắc đạo đức có điều gì mâu thuẫn thì điều đó phải được giải quyết trên cơ sở đạo đức.
- Pháp luật XHCN bảo vệ những tập quán truyền thống tiến bộ. Mặt khác, nó cũng ngăn cản, hạn chế và loại trừ những tập tục lạc hậu ( như tảo hôn, đa thê...)
- Pháp luật có quan hệ mật thiết với các quy phạm của các tổ chức xã hội nhất là Nghị quyết, điều lệ của Đảng cộng sản. Đường lối chính sách của Đảng là một trong những cơ sở của pháp luật. Mặt khác, pháp luật cũng là một trong những cơ sở để Đảng hoạch định đường lối, chính sách (Điều 4 Hiến pháp 1992).
Pháp luật XHCN là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảmbảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác, được quy định bởi cơ sở kinh tế của CNXH trong thời kỳ mới, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích xây dựng một xã hội dân chủ và phồn vinh.

II. Mối liên hệ pháp luật Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay: (xem giáo trình).





Câu 14Lý luận và thực trạng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

I. Lý luận:
- Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của các quyết định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự và dưới hình thức nhất định, có chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần, trong thực tiễn đời sống và việc thực hiện văn bản không làm chấm dứt hiệu lực của nó.
+ Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành: không phải mọi văn bản pháp luật đều là văn bản quy phạm pháp luật. VBQPPL được thực hiện theo 1 trình tự luật định.
+ VBQPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung (mang tính quy phạm phổ biến).
+ VBQPPL được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội, áp dụng trong mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra.
1.     Quốc hội:
+ Hiến pháp
+ Luật
+ Nghị quyết.
 Hiến pháp là luật cơ bản, quy định những vấn đề cơ bản nhất của quốc gia.
Luật điều chỉnh các loại quan hệ trong đời sống nhà nước và xã hội.
 Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể, nhất thời.
2. UBTVQH:
+ Pháp lệnh
+ Nghị quyết
Nhiều pháp lệnh mang tính chất luật, điều chỉnh quanhệ xã hội chưa được pháp điển hóa thành luật.
Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể.
3. Chủ tịch nước:
+ Lệnh
 + Quyết định
Có hiệu lực pháp lý gần như ngang với văn bản của UBTVQH, cao hơn các văn bản của Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương.
4. Chính phủ:
+ Nghị quyết
+ Nghị định
Có hiệu lực pháp lý thấphơn vănbản của Chủ tịch nước.
5. Thủ tướng Chính phủ:
+ Quyết định
+ Chỉ thị
Sử dụng quá trình điều hành Chính phủ.
6. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ:
+ Quyết định
+ Chỉ thị
+ Thông tư
Giới hạn trong phạm vi của 1 bộ, hoặc cùng các bộ, ban ngành, tổ chức xã hôi cùng thực hiện một vấn đề chung.
7. Hội đồng thẩm phán TANDTC:
+ Nghị quyết
8. Viện trưởng VKSNDTC:
+ Quyết định
+ Chỉ thị
+ Thông tư
9. HĐND:
+ Nghị quyết.
10. UBND:
+ Quyết định
 + Chỉ thị
Hệ thống VBQPPL ở Việt Nam theo Hiến pháp 1992 và luật ban hành VBQPPL bao gồm:
- Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, Nghị quyết.
- Văn bản do UBTVQH ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết.
- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thi hành VBQPPL của Quốc hội và UBTVQH:
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Nghị quyết, nghị định của Chính phủ. Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
+ Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
+ Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
+Nghị quyết, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng VKSNDTC.
+ Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với các tổ chức chính trị- xã hội.
- Văn bản do HĐND, UBND để thi hành VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản do UBND ban hành còn để thi hàng Nghị quyết của HĐND cùng cấp.
+ Nghị quyết của HĐND.
+ Quyết định, chỉ thị của UBND.

II. Thực trạng:
1. Ưu điểm: (4)
- Pháp luật từ chỗ tản mạn nay đã có hẳn chương trình xây dựng pháp luật, có luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Bước đầu có sự pháp điển hóa thành các bộ luật, pháp luật trở nên gần gũi, khách quan và khả thi hơn.
- Pháp luật ngày càng ghi nhận các quyền và lợi ích chính đáng của con người mà trước đây chủ yếu nói về nghĩa vụ, bổn phận.
- Ta đã quan tâm đến cả 2 mặt pháp luật kinh doanh và pháp luật về các vấn đề xã hội phát huy những mặt tích cực và phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường, từng bước giải quyết 2 vấn đề tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
2. Hạn chế: (7).
- Quy trình, thể thức ban hành văn bản của ta về cơ bản còn lạc hậu so với các nước trên thế giới.
- VBQPPL của ta, qua đợt tổng rà sóat đã phát hiện nhiều sai phạm, nhiều văn bản chồng chéo, trái với quy định của luật, nghị định...
- Quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, xét về tổng thể, hệ thống VBQPPL của ta hiện rất lộn xộn, có nhiều văn bản hướng dẫn hay quy định 1 cách sai lạc so với quy định của pháp luật hoặc văn bản cấp trên.
- Vănbản pháp luật của ta thường xuyên thay đổi, mất đi tính ổn định của pháp luật.
- VBQPPL của ta thiếu tính minh bạch, nhiều quy phạm khôngcó cách hiểu thống nhất. Nhiều văn bản mức độ khái quát hóa cao, dẫn đến việc hiểu như thế nào cũng được, không khả thi và khó thực hiện.
- Nhiều văn bản pháp luật không được công khai hóa, khó cập nhật với người dân, dẫn đến tình trạng người dân không hiểu luật, thậm chí thờ ơ trước pháp luật.
- Trong những năm gần đây, không hẳn là chúng ta thiếu các văn bản pháp luật, tuy nhiên vấn đề thực thi trên thực tế lại không mấy hiệu quả do pháp luật của chúng ta chưa đi vào cuộc sống, chưa được áp dụng một cách triệt để và đồng bộ.
3. Phương hướng hòan thiện: (5).
- Dân chủ hóa trong việc ban hành các văn bản pháp luật, mục đích xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tham gia lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, VBQPPL banhành phải thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân.
- Nâng cao chất lượng soạn thảo, xây dựng VBQPPL, bằng việc khảo sát thực tế, phát hiện những vấn đề hợp lý nhưng chưa hợp pháp cần tháo gỡ để hoàn thiện.
- Hoàn thiện hệ thống VBQPPL để người dân có thể dễ dàng truy cập, ngôn ngữ cần phải đơn giản, dễ hiểu, dễ vận dụng trên thực tế.
- Văn bản cần phải minh bạch, chặt chẽ về mặt hình thức, đáp ứng được yêu cầu về mặt nội dung.
- Tăng cường công tác pháp điển hóa, tập hợp hóa các vănbản dưới luật để đề lên thành luật. Đồng thời kiểm tra, rà soát những văn bản đã hết hiệu lực.





Câu 15Xu hướng cơ bản phát triển của pháp luật.

- Hiện nay nhà nước pháp quyền đang được coi là giá trị văn minh của nhân loại mà mọi người, mọi quốc gia muốn trở thành dân chủ, tiến bộ, văn minh đều phải hướng tới.
- ở Việt Nam, mặc dù nhà nước pháp quyền là vấn đề mới cả về phương diện lý luận nhận thức và thực tiễn nhưng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX của Đảng, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 và đang được nghiên cứu, xây dựng cho phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước.
- Hiện nay, xung quanh vấn đề khái niệm nhà nước pháp quyền có nhiều quan điểm rất khác nhau thậm chí mâu thuẫn nhau nhưng tất cả các quan điểm đó đều đề cập đến 1 đặc điểm rất quan trọng và nổi b ật của nhà nước pháp quyền đó là vai trò to lớn của pháp luật.
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền chỉ là phương tiện quản lý mọi mặt của đời sống xã hội mà còn là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội, đối với mọi công dân tồn tại trong xã hội đó. Nó không chỉ là phương tiện để đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà còn là yếu tố đảm bảo và duy trì ổn định và phát triển xã hội, của đất nước, đảm bảo về mặt pháp lý quyền tự do dân chủ của công dân được thực hiện.
- Để thực sự phát huy được vai trò to lớn của mình trong nhà nước pháp quyền, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, pháp luật Việt Nam cần đổi mới và phát triển theo các xu hướng sau:
1. Quy định rộng rãi hơn trong pháp luật các thiết chế dân chủ và những hình thức dân chủ trong đời sống xã hội, mở rộng các quyền tự do dân chủ của công dân, dân chủ hóa hoạt động tư pháp.
- Hiến pháp 1992 và các đạo luật tổ chức bộ máy nhà nước đã thực hiện tư tưởng cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Đối chiếu những điều khoản tương ứng của Hiến pháp 1992 với Hiến pháp 1980, có thể thấy vị trí, vai trò của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được nêu cao một bước. Pháp luật hiện hành cũng quy định chặt chẽ hơn địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội và quan hệ của các tổ chức đó với nhà nước, tạo điều kiện cho chúng tham gia quản lý những công việc của nhà nước và xã hội.
- Hiến pháp 1992( chương V) quy định rộng rãi và hợp lý hơn các quyền và nghĩa vụ của công dân so với Hiến pháp 1980. Có những quyền lần đầu tiên được Hiến pháp 1992 quy định, ví dụ: công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57). Nhiều năm gần đây xuất hiện những quy định pháp luật mở rộng quyền tự do đi lại, ra nước ngoài thăm thân nhân, đi học tập, đào tạo...
- Pháp luật hiện hành điều chỉnh chi tiết hơn những hình thức để công dân và các tổ chức của họ tham gia vào đời sống chính trị, mở rộng hoặc quy định chi tiết hơn các hình thức như bầu cán bộ lãnh đạo, bỏ phiếu tín nhiệm, thảo luận góp ý kiến dự án pháp luật, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý, khiếu nại, tố cáo...tạo ra cơ sở cho công dân tham gia tòan diện hơn vào công tác quản lý nhà nước.
- Việc dân chủ hóa trong hoạt động tư pháp, việc ban hành pháp lệnh luật sư, sửa đổi quy định Hiến pháp về chức năng VKS, việc thành lập tòa kinh tê, hành chính tronghệ thống tòa án cùng với chế độ bổ nhiệm thẩm phán, công khai hoạt động xét xử, coi trọng nguyên tắc bào chữa và từ bào chữa của bị can , bị cáo... đã thểhiện bước tiến quan trọng của pháp luật nước ta.
2. Mở rộng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quanhệ xã hội.
-Dưới tác động của quá trình xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,bao cấp và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước ta có những thay đổi nhất định và ngày càng mở rộng. Xuất hiện những văn bản quy phạm pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề: đầu tư của cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, bảo vệ môi trường, đảm bảo về mặt xã hội đối với người lao động, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân... Để nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường, bên cạnh đòi hỏi hoàn thiện luật dân sự chắc chắn sẽ phải có các văn bản điều chỉnh chi tiết hơn về hoạt động, tổ chức, ngoại hối, ngân sách, tín dụng, thuế, giá cả, chống độc quyền, phá sản, bảo vệ người tiêu dùng...
- Sự thay đổi và mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật diễn ra không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Ví dụ: vấn đề dân số, di sản văn hóa, du lịch...
3. Nhân đạo hóa, vì con người và bảo vệ con người.
- Ngay từ khi hình thành, nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta đã được khẳng định. Ngày nay pháp luật Việt Nam ngày càng quan tâm nhiều hơn đến con ngừoi và cuộc sống của họ.
- Xu hướng nhân đạo hóa vì con người và bảo vệ con người được thể hiện ở chỗ chẳng những pháp luật ngày càng chú trọng tới lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, mở rộng quyền tự do dân chủ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của công dân, thiết lập lối sống tập thể ; mà còn ở quá trình thay thế các biện pháp quản lý cứng nhắc mang tính chất trừng trị bằng các biện pháp mang tính nhân đạo hơn và giáo dục hơn.
Trong pháp luật hình sự có những hành vi ít nguy hiểm cho xã hôi trong điều kiện mới đã không bị coi là tội phạm mà chỉ bị xử lý hành chính. Pháp luật xử phạt hành chính hiện hành cũng xóa bỏ nhiều hình thức xử phạt trước đó vàchỉ giữ 2 hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền và 2 hình phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.
- Xu hướng nhân đạo cũng được biểu hiện ở sự xóa bỏ 1 số hành vi trước đây coi là vi phạm pháp luật và chuyển giao cho các tổ chức xã hội, tập thể lao động giải quyết bằng giáo dục, thuyết phục và các biện pháp tác động xã hội khác.
- Tuy nhiên xu hướng nhân đạo hóa không loại trừ việc pháp luật quy định tăng nặng hình phạt và các chế tài khác đối với một số vi phạm nhất định nhằm thiết lập, củng cố trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: Gần đây pháp luật hình sự nước ta đã quy định mức án cao nhất là tử hình đối với tội tham nhũng hoặc pháp luật xử phạt hành chính cũng có xu hướng tăng mức tiền phạt đối với buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép.
4. Sự phát triển pháp luật gắn liền vơi xu hướng pháp điển hóa các ngành luật.
- Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền là quá trình phải đề cao vai trò của pháp luật và các đạo luật, bộ luật ngày càng chiếm lĩnh vị trí chủ đạo trong việc điều chỉnh những lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng của đời sống. Thực tiễn đòi hỏi phải dần thay thế các văn bản dưới luật bằng những đạo luật, bộ luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo và tình trạng cục bộ ngành, chủ nghĩa đa phương thể hiện trong pháp luật.
- Hiện nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng pháp luật. Trên cơ sở Hiến pháp1992, nhiều đạo luật mới, ví dụ các luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã được ra đời. Thời gian tới nhà nước sẽ ban hành nhiều các đạo luật khác như Luật Tòa án hành chính, Luật công chức nhà nước.
- Bên cạnh Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật hàng hải... đã được ban hành, bộ luật dân sự cũng đang được quan tâm xây dựng.
- Thời gian qua, hoạt động xây dựng pháp luật theo hướng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền đã được triển khai một cách có hiệu quả. Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là xây dựng nhà nước pháp quyền thực sư của dân, do dân và vì dân. Pháp luật thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ nhân dân. Nhân dân là trung tâm, là mục tiêu hướng tới của pháp luật cũng như mọi thiết chế chính trị. Với những xu hướng phát triển cơ bản như trên, pháp luật chắc chắn sẽ đáp ứng những yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền và góp phần vào quá trình hiện thực hóa nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Câu 16Quan hệ pháp luật.

I. Khái niệm quan hệ pháp luật.
- Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội dưới tác động điều chỉnh của các quy phạm pháp luật.
- Phân biệt quan hệ pháp luật với quan hệ xã hội: Không phải dưới tác động của quy phạm pháp luật, quan hệ xã hội sẽ trở thành quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật cũng không phải là 1 bộ phận của quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội luôn tồn tại khách quan, quan hệ pháp luậtlà phạm trù chủ quan xuất hiện trên cơ sở ý chí của nhà làm luật. QHXH được nhiều khoa học xã hội khác nhau nghiên cứu, còn QHPL do khoa học pháp lý nghiên cứu. Nhưng 2 khái niệm này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi một QHXH được khoác chiếc áo pháp lý thì vẫn tồn tại song song 2 loại quan hệ: QHXH nội dung vật chất của QHPL, QHPL là hình thức pháp lý của QHXH. QHPL có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc làm trật tự hóa QHXH, hướng nó phát triển phù hợp với ý định của nhà làm luật.
- Đặc điểm:
1. QHPL là quan hệ mang tính ý chí.
- QHPL phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật, mà nội dung quy phạm pháp luật phản ánh ý chí nhà nước.
- Trong đa số các trường hợp, trong khuôn khổ quy phạm pháp luật đã xác định, QHPL phát sinh, thay đổi và chấm dứt do ý chí của các bên tham gia.
2. QHPL là một loại quan hệ tư tưởng, quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng.
- Pháp luật nói chung là một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng. QHPL xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật vì vậy nó thuộc kiến trúc thượng tầng. Tính chất và nội dung QHPL phụ thuộc vào tính chất quan hệ sản xuất.
- Sự phụ thuộc của QHPL vào cơ sở kinh tế: là 1 loại quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng, QHPL thay đổi phù hợp với sự thay đổi của cơ sở kinh tế, kiểu quan hệ sản xuất nhất định sẽ sản sinh ra kiểu QHPL tương ứng.
- Sự tác động trở lại của QHPL với cơ sở kinh tế: sở dĩ như vậy vì hầu hết các quan hệ kinh tế XHCN đều thực hiện dưới hình thức pháp lý- QHPL. QHPL không chỉ có vai trò quan trọng trong việc củng cố các quan hệ kinh tế mà còn tạo điều kiện cho nó phát triển thuận lợi. Không loại trừ khả năng nó kìm hãm, hạn chế sự phát triển của quan hệ kinh tế.
3. QHPL xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật.
- Không có quy phạm pháp luật thì không có QHPL. QHPLlà phương tiện thực hiện quy phạm pháp luật, vì quy phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống thông qua QHPL.
- Quy phạm pháp luật xác định trước điều kiện xuất hiện của QHPL, chủ thể tham gia quan hệ, quyền và nghĩa vụ pháp lý và những biện pháp bảo vệ quyền và nghĩa vụ ấy khi chúng bị vi phạm.
4. QHPL là quan hệ mà các bên tham gia( chủ thể) quan hệ đó mang quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
- Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật quy định cấu thành nội dung của quan hệ quy phạm. Quy phạm pháp luật luôn quy định sao cho quyền chủ thể của một bên phải tương ứng với nghĩa vụ pháp lý của bên kia và ngược lại, nghĩa vụ pháp lý của 1 bên phải phù hợp với quyền chủ thể của bên còn lại.
5. Sự thực hiện quan hệ pháp luật được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước.
- QHPL xác định rõ trách nhiệm phap lý của các chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý hoặc quyền chủ thể, đồng thời quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý khi có vi phạm.
- Tuy nhiên, QHPL được thực hiện trong đời sống không chỉ nhờ cưỡng chế mà còn được thực hiện nhờ ý thức tự giác, tự nguyện của các bên tham gia.
6. QHPL có tính xác định.
Trên cơ sở quy phạm pháp luật, nhiều           QHPL được hình thành. QHPLcó tính xác định cụ thể vì nó chỉ xuất hiện khi có sự kiện pháp lý, khi có chủ thể nhất định tham gia.
* Phân loại QHPL:
- Tương ứng với các ngành luật: quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hình sự...
- Căncứ vào cách quy định quyền và nghĩa vụ giữa những bên tham gia:
+ QHPL phức tạp: mỗi chủ thể có cả quyền và nghĩa vụ.
+ QHPL đơn giản: 1 bên thuần túy có quyền, 1 bên có nghĩa vụ.
- Tính chất nghĩa vụ được trao cho các bên tham gia:
+ QHPL tích cực: bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bằng những hành động tích cực.
+ QHPL thụ động: bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bằng không hành động.
- Căn cứ vào đặc trưng của sự tác động:
+ QHPL điều chỉnh: là quan hệ hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh.
+ QHPL bảo vệ: là quan hệ hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật bảo vệ trật tự pháp luật.

II. Chủ thể pháp luật và chủ thể QHPL:
- Chủ thể QHPL là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia QHPL , có được quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật.
- Chủ thể pháp luật có thuộc tính đặc biệt do nhà nước trao cho là năng lực chủ thể.
+ Năng lực pháp luật: là khả năng chủ thể có được quyền và nghĩa vụ pháp lý m à nhà nước thừa nhận.
+ Năng lực hành vi: là khả năng của chủ thể, khả năng này được nhà nước thừa nhận, bằng các hành vi của mình thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý khi tham gia các QHPL.
- Đặc điểm các loại chủ thể:
+ Công dân: . Năng lực chủ thể xuất hiện từ khi sinh ra.
. Năng lực hành vi: đến một độ tuổi nhất định, ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ, sức khỏe.
+ Người nước ngoài, người không có quốc tịch: có thể trở thành chủ thể QHPL theo các điều kiện áp dụng cho công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong 1 số lĩnh vực, năng lực chủ thể của người nước ngoài và người không có quốc tịch bị hạn chế hoặc trong trường hợp cá biệt được mở rộng hơn.
+ Các tổ chức: gồmtổ chức nhà nước (cơ quan quản lý, quyền lực nhà nước, tòa án, viện kiểm sát...); tổ chức xã hội; nhà nước nói chung; tổ chức kinh tế.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt của pháp luật, là chủ thể của QHPL quốc tế, của ngành luật nhà nước.
Các tổ chức: có đặc trưng:
1) Cơ cấu tổ chức thống nhất quy định trong quy chế, điều lệ, hoặc trong văn bản của nhà nước.
2) Có năng lực pháp lý xác định.
3) Năng lực pháp luật, năng lực hành vi xuất hiện đồng thời với việc thành lập tổ thức.
4) Năng lực hành vi được thực hiện thông qua cơ quan, người đại diện.
5) Hoạt động của các tổ chức được gắn liền với những lĩnh vực nhất định của đời sống nhà nước và xã hội.
+ Trong lĩnh vưc dân sự, kinh tế, các tổ chức có tư cách pháp nhân:
1) Là tổ chức có cơ cấu thống nhất, hoàn chỉnh.
2) Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm tài sản của mình.
3) Họat động với danh nghĩa riêng, có trụ sở và quốc tịch.
4) Có thể nhân danh mình tiến hành các hoạt động kể cả hoạt động tố tụng và chịu trách nhiệm về hậu quả phát sinh từ hoạt động đó.

II. Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
Là nội dung của QHPL, xuất hiện ở các cá nhân, tổ chức trên cơ sở quy phạm pháp luật.
1. Quyền chủ thể: là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ được quy phạm pháp luật quy định trước, được bảo vệ bởi sự cưỡng chế nhà nước.
- Đặc điểm quyền chủ thể:
+ Khả năng được hoạt động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định trước.
+ Khả năng yêu cầu bên kia (chủ thể cùng tham gia QHPL) thực hiện nhiệm vụ của họ ( sự thực hiện có thể bằng hành động hoặc không hành động).
+ Khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp quyền chủ thể của mình bị bên kia vi phạm.
- Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao nghĩa vụ: quyền năng. Là khả năng của 1 bên, khả năng đó được nhà nước bảo vệ, yêu cầu bên kia có xử sự cần thiết trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định.
- Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao quyền: là những loại biện pháp thuộc khả năng xử sự của bản thân chủ thể được nhà nước bảo vệ.
2. Nghĩa vụ pháp lý:
- Nghĩa vụ pháp lý trong QHPL là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền chủ thể của bên kia.
- Đặc điểm:
+ Là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật xác định trước.
+ Các xử sự này nhằm thực hiện quyền chủ thể của bên kia.
+ Trong trường hợp cần thiết, nhiệm vụ pháp lý sẽ được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
- Nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao nghĩa vụ: xuất hiện nghĩa vụ thụ động, tức bên có nghĩa vụ phải kìm chế mình không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm.

IV. Khách thể QHPL:
- Khách thể QHPL là cái mà QHPL đó tác động tới.
- Các cá nhân, tổ chức tham gia vào những QHPL nhằm thỏa mãn những nhu cầu kinh tế, chính trị, tinh thần, hoặc thông qua những hành vi thực hiện quyền chính trị, quyền bầu cử... Những hành vi trên gắn chặt với quyền chủ thểvà nghĩa vụ pháp lý.
Khách thể QHPL là các hành vi của các công dân, tổ chức khi tham gia vào QHPL, thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
- Các hành vi này luôn hướng tới 1 đối tượng cụ thể như lợi ích vật chât (tài sản), giá trị tinh thần (danh dự, nhân phẩm, tự do) hoặc lợi ích chính trị (bầu cử). Các đối tượng này là khách thể của hành vi.

V. Sự kiện pháp lý:
- Sự kiện pháp lý là những điều kiện,hòan cảnh, tình huống của đời sống thực tế được chỉ ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật mà nhà làm luật gắn chặt sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt của QHPL với sự tồn tại của nó.
- Không phải mọi điều kiện,hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế là sự kiện pháp lý, mà chỉ những sự kiện có ý nghĩa pháp lý trong số đó và được nhà làm luật thừa nhận.
- Phân loại:
 + Phụ thuộc vào số lượng những hoàn cảnh, điều kiện làm này sinh hậu quả pháp lý:
Sự kiện pháp lý đơn giản: Ví dụ: cái chết của 1 người.
Sự kiện pháp lý phức tạp: Ví dụ: được nhận lương hưu phải có những điều kiện như thâm niên công tác, thời gian công tác, đơn xin về hưu, quyết định...
+ Căn cứ vào hậu quả sự kiện pháp lý.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh QHPL.
Sự kiện pháp lý làm biến đổi QHPL.
Sự kiện pháp lý làm chấm dứt QHPL.
+ Phân theo dấu hiệu ý chí:
Sự biến: là những hiện tượng của đời sống khách quan xảy ra không phụ thuộc vào ý chí con người.
Hành vi: bao gồm : hành động và khônghành động.
Hành vi hợp pháp: là xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; hành vi bất hợp pháp là xử sự trái với yêu cầu của pháp luật.

Câu 17: Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật.

I. Thực hiện pháp luật.
- Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật.
- Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý chia thành những hình thức thực hiện pháp luật sau:
1. Tuân thủ pháp luật:
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ: 1 công dân kiềm chế không thực hiện những hành vi mà Bộ luật hình sự ngăn cấm- tuân thủ các quy định của bộ luật đó.
2. Thi hành pháp luật:
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: pháp luật quy định công dân nam từ 18-27 phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, 1 thanh niên trong độ tuổi trên nhập ngũ, phục vụ trong quân đội- thi hành pháp luật.
3. Sử dụng pháp luật :
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện bằng những hành vi mà pháp luật cho phép). Ví dụ: pháp luật quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, 1 công dân có quyền gửi đơn khiếu nại tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình bị vi phạm- sử dụng pháp luật.
Chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật trao cho theo ý chí của mình.
4. áp dụng pháp luật:
Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, tổ chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
* Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là hình thức mà mọi chủ thể đều có thể thực hiện. áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự tham gia của nhà nước.

II. áp dụng pháp luật:
1. Khái niệm áp dụng pháp luật.
a) Sự áp dụng pháp luật xảy ra trong các trường hợp sau:
- Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật quy định với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: 1 chủ thể pháp luật thực hiện hành vi phạm tội thì không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt. Cần phải có hoạt động của cơ quan Tòa án, cơ quan bảo vệ pháp luật có liên quan điều tra, xét xử... ra bản án và buộc chấp hành.
- Khi quan hệ pháp luật với những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Ví dụ: Hiến pháp 1992 quy định mọi công dân có quyền và nghĩa vụ lao động. Nhưng quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ thể giữa công dân với cơ quan, tổ chức nhà nước chỉ phát sinh khi có quyết định tuyển dụng.
- Khi xảy ra tranh chấp, quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.
Ví dụ: tranh chấp giữa những bên tham gia hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự.
- Trong 1 số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hoặc không tồn tại của 1 số sự việc, sự kiện thực tế.
Ví dụ: việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp.
áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước. Nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật,vừa là cách thức cơ quan nhà nước tổ chức cho các bên chủ thể thực hiện pháp luật.
2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật.
- áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước.
+ Chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành: pháp luật quy định mỗi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện 1 số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong quá trình áp dụng pháp luật, pháp luật được coi là phương tiện, công cụ cần thiết để cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình.
+ Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng.
+ Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và chủ thể liên quan.
+ Trong trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng cưỡng chế nhà nước.
- áp dụng pháp luật là hoạt động có hình thức, thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ.
+ Pháp luật quy định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ áp dụng pháp luật.
+ Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó.
- áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt , cụ thể đối với các quan hệ xã hội.
 +Đối tượng củahoạt động áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội yêu cầu sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những mệnh lệnh quy phạm chung.
 + Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa, cụ thể hóa vào đời sống xã hội.
- áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
 + Khi áp dụng pháp luật cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sácg tỏ cấu thành pháp lý, lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng và tổ chức thihành.
 + Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ cần vận dụng 1 cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự.
* Định nghĩa: áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổchức cụ thể.
3. Hình thức thể hiện của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật.
Đặc điểm:
- VBADPL là 1 yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp.
- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách, tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành và được đảm bảo băng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Có tính chất cá biệt, nó luôn hướng các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trương hợp cụ thể.
- Phải hợp pháp và phù hợp với thực tế. Phải phù hợp với luật và quy phạm pháp luật cụ thể nếu không sẽ bị đình chỉ, hủy bỏ. Không phù hợp với thực tế thì sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả.
- Có những hình thức pháp lý nhất định: như bản án, quyết định...
4. Căn cứ vào nội dung và nhiệm vụ của VBADPL: chia thành 2 loại:
- Văn bản xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý theo hướng tích cực: là loại văn bản trong đó xác định cụ thể ai mang quyền chủ thể, ai mang nghĩa vụ pháp lý bằng con đường cá biệt hóa phần quy định của quy phạm pháp luật.
- Văn bản bảo vệ pháp luật: là văn bản chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
* VBADPL là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở quy phạm pháp luật nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể mang tính tích cực của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm pháp luật.

III. Thực tiễn áp dụng pháp luật:
ở nước ta trong điều kiện chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, xuất hiện 2 xu hướng có liên hệ mật thiết với nhau:
- Xu hướng thu hẹp phạm vi những quan hệ xã hội cần có sự điều chỉnh cá biệt mang tính quyền lực nhà nước. Nguyên nhân của xu hướng này là sự đổimới vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế.
- Xu hướng nâng cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và chất lượng của VBADPL nói riêng, trong đó đặc biệt quan trọng là đề cao hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án và hiệu quả của các quyết định xét xử của nó. Ngoài hệ thống Tòa án truyền thống xét xử những vụ việc hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình xuất hiện 1 loại tòa án mới như tòa hành chính, tòa kinh tế, tòa lao động.
Điều đó nhằm tạo ra cơ chế hữu hiệu để đảm bảo trật tự kỷ cương, các quyền tự do dân chủ, sự công bằng và tiến bộ xã hội.

Câu 18ý thức pháp luật.

I. Khái niệm và chức năng ý thức pháp luật.
1. Khái niệm:
ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết, tư tưởng, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hoặc không công bằng, đúng đắn hoặc không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hoặc không hợp pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan , tổ chức.
2. Đặc điểm:
- Với tính cách là 1 hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng có tính độc lập tương đối. Thể hiện:
 + Nó thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Thực tế đã chứng minh: tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng trong 1 thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ lại đặc biệt ngoan cố trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi mà các thói quen truyền thống đóng vai trò to lớn. Ví dụ: những biểu hiện tâm lý của pháp luật phong kiến như sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật vẫn phổ biến trong xã hội ta.
+ Trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên trên sự phát triển tồn tại xã hội. Nếu là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi thể hiện thành pháp luật và tạo ra những tiến bộ trong đời sống xã hội.
+ ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của 1 thời đại nào đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật của thời đại trước. Tất nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
+ ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức, với các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng pháp lý như nhà nước và pháp luật.
Tùy thuộc vào ý thức pháp luật tiếnbộ hoặc lạc hậu mà sự tác động của nó có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các hiện tượng trên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục pháp luật là phải biết phát huy mặt tích cực trong những biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật và hạn chế tới mức thấp nhất những mặt tiêu cực của biểu hiện đó.
- ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp:
+ Thế giới quan pháp lý của 1 giai cấp nhất định được quy định bởi địa vị pháp lý của giai cấp đó trong xã hội.
+ Mỗi quốc gia chỉ có 1 hệ thống pháp luật nhưng tồn tại 1 số hệ thống ý thức pháp luật: có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, bị trị, của các tầng lớp trung gian.
+ Về nguyên tắc, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh vào trong pháp luật. ý thức pháp luật của giai cấp bị trị mâu thuẫn với ý thức pháp luật của giai cấp thống trị trong xã hội.
+ Trong xã hội ta, giữa giai cấp công nhân , nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội có lợi ích thống nhất với nhau về cơ bản, do đó ý thức pháp luật mang tính thống nhất cao. Nó phản ánh sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ta.
2. Chức năng của ý thức xã hội:
- Chức năng nhận thức: Để hình thành các quan điểm, quan niệm, lòng tin về các quy phạm pháp luật hiện hành và cần ban hành, phải phân tích hiện thực khách quan và nhận thức được hiện thực đó- ý thức pháp luật cóchức năng nhận thức- tức nhận thức các quá trình kinh tế- xã hội, các giá trị đạo đức đã được thể chế hóa hoặc sẽ được thể chế hóa.
- Chức năng mô hình hóa pháp lý: Kết quả của quá trình nhận thức là sự hình thành nên các mô hình hành vi nhất định mà ý thức pháp luật đánh giá là các mô hình cần thiết và tất yếu để các quan hệ xã hội phát triển có kết quả.
- Chức năng điều chỉnh: ý thức pháp luật hướng cho hành vi của con người phù hợp với yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành, hoặc làm cho hành vi của con người trở nên sai lệch với các yêu cầu đó- Thể hiện chức năng điều chỉnh của pháp luật.

II. Cơ cấu ý thức pháp luật:
1. Căn cứ vào tính chất, nội dung chia thành: + Hệ tư tưởng
+ Tâm lý pháp luật
- Hệ tư tưởng pháp luật là tổng những tư tưởng, quan điểm và học thuyết pháp luật. Những vấn đề lý luận và xây dựng pháp luật,giá trị xã hội và chức năng của pháp luật, sự bình đẳng của các thành viên, mối quan hệ quyền và nghĩa vụ, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước... thuộc hệ tư tưởng pháp luật.
- Tâm lý pháp luật: được hình thành 1 cách tự phát dưới dạng tâm trạng, xúc cảm, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý.
Những tâm trạng, thái độ, tình cảm pháp luật phần lớn được hình thành dưới sự tác động của giao tiếp của con người, là sự biểu hiện phản ứng của con người trước các hiện tượng pháp lý.
- So sánh tư tưởng pháp lý và tâm lý pháp lý là bộ phận bền vững hơn, bảo thủ hơn. Tâm lý pháp luậtgắn bó chặt chẽ với truyền thống, tập quán, thói quen của con người. Nó hình thành chậm chạp và ít biến đổi.
- Tư tưởng pháp luât và tâm lý pháp luật có mối quan hệ biện chứng: Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào đạo đức và trinh độ tư tưởng pháp luật. Ngược lại, sự phát triển của tư tưởng pháp luật chịu sự ảnh hưởng của tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật cá nhân là tiền đề của những tư tưởng pháp luật mà cá nhân đó cần đạt tới.
2. Căn cứ vào mức độ và phạm vi nhận thức: chia thành:
 +ý thức thông thường
 + ý thức mang tính lý luận
- ý thức thông thường phản ánh mối liên hệ bên ngoài, có tính chất cục bộ của hiện tượng pháp luật, chưa đi vào bản chất bên trong của hiện tượng này. 1người mang ý thứcpháp luật thông thương có nghĩa anh ta chưa có những kiến thức sâu sắc mang tính lý luận, hệ thống pháp luật nhưng đã có những hiểu biết nhất định về quy phạm pháp luật, kinh nghiệm giải quyết những vụ việc pháp lý cụ thể.
- ý thức pháp luật mang tính lý luận: Tồn tại dưới dạng học thuyết, quan điểm về pháp luật. ý thức pháp luật mang tính lý luận bao gồm những quan điểm về bản chất pháp luật, sự tác động qua lại của pháp luật với các hiện tượng xã hội khác, vai trò của cơ chế điều chỉnh pháp luật trong xã hội...
3. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật: chia thành: + YTPL xã hội.
+ YTPL nhóm.
+ YTPL cá nhân
- YTPL xã hội: là YTPL của bội phận tiên tiến đại diện cho xã hội. YTPL xã hội trê cơ sở khoa học cao. YTPL xã hôi chứa đựng những khái niệm khoa học về bản chất, chức năng, vai trò, nguyên tắc... của pháp luật và được hình thành dưới sự tác động của khoa học pháp lý. YTPL nhóm và cá nhân chịu ảnh hưởng to lớn của YTPL xã hội.
- YTPL nhóm: là những đặc điểm của nhóm xã hội. Đó là những quan điểm, nhận thức, tình cảm pháp luật của1 nhóm người nhất định trong xã hội. Do giống nhau về điều kiện sống và lợi ích đã tạo cho các thành viên trong nhóm có những khái niệm, nhận thức, thái độ tương đối giống nhau đối với pháp luật.
- YTPL cá nhân: là những khái niệm, quan điểm, tâm trạng, tình cảm pháp lý, của mỗi công dân. Không phải ý thức pháp luật cá nhân của mọi cá nhân đều đạt tới YTPL xã hội. Trình độ YTPL của mỗi cá nhân có sự không giống nhau.

III. Quan hệ ý thức pháp luật- pháp luật.
YTPL là 1 hình thái ý thức xã hội cùng với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác cấu thành kiến trúc thượng tầng pháplý xã hội. YTPLvà pháp luật là 2 hiện tượng pháp lý khác nhu nhưng có quan hệ biện chứng với nhau.
1.YTPL và hoạt động xây dựng pháp luật.
- YTPL là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng pháp luật. YTPL cao cho phép đánh giá đúng đắn tầm quan trọng pháp lý của các quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật điều chỉnh chúng. YTPL cao đảm bảo cho hoạt động soạn thảo , xây dựng dự án pháp luật được tiếnhành tốt.
- YTPL là nhân tố chủ quan, có ý nghĩa quyết định đối với nội dung của các VBQPPL. ở Việt Nam hiện nay, nhìn tòan cục, pháp luật hiện hành phù hợp với những tư tưởng cơ bản của ý thức pháp luật tiến bộ, ghi nhận và phản ánh trung thành các tư tưởng dân chủ, nhân đạo, công cụ bằng sự thống nhất quyền và nghĩa vụ...
- Xuất phát từ vai trò trên của YTPL đối với hoạt động xây dựng pháp luật, cần thiết phải hoàn thiện hệ tư tưởng pháp luật. Với tính cách là bộ phận lýluận khoa học của YTPL mà ở đó phản ánh các lợi ích và nhu cầu xã hội và chuyển hóa chúng thành các chế định và quy phạm pháp luật.
+ Liên quan tới sự nâng cao trình độ pháp luật nghề nghiệp của các cán bộ, cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật.
+ Đòi hỏi nâng cao YTPLcho các tầng lớp nhân dân lao động vì trong quá trình phát triển và mở rộng dân chủ, nhân dân lao động ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào quá trình xây dựng pháp luật.
2. YTPL và thực hiện pháp luật.
- Sự thực hiện pháp luật cũng tùy thuộc vào trình độ nhận thức và trạng thái tâm lý pháp luật của con người.
+ Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể thông qua sự tác động vào ý thức của họ.
+ Đối với các cá nhân, hành động nhận thức các yêu cầu của quy phạm pháp luật từ đó xác lập động cơ, mục đích,lựa chọn phản ánh xử sự xảy ra trước khi họ thực hiện hành vi pháp luật.
+ YTPL của các chủ thể càng cao thì sự tuân thủ pháp luật , sử dụng pháp luật, chấp hành pháp luật của họ càng đúng đắn.
- YTPL có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật.
+ Để giải quyết tốt vụ việc cá biệt, cụ thể, đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách phải thu thập nhanh chóng, phân tích chính xác các tình tiết của vụ việc, xác định rõ đặc trưng pháp lý của nó. Lựa chọn quy phạm pháp luật thích ứng để giải quyết vụ việc, làm sáng tỏ nội dung tư tưởng quy phạm pháp luật được lựa chọn, ra quyết định áp dụng pháp luật hợp pháp và hợp lý, tổ chức thi hành.
+ YTPL nghề nghiệp cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách giải quyết tốt các vụ việc pháp lý...
+ Trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, YTPL cao cho phép áp dụng pháp luật tương tự được đúng đắn.
YTPL của các cán bộ có thẩm quyền áp dụng pháp luật càng cao thì hoạt động áp dụng pháp luật càng đúng và có hiệu quả.
3. Tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật:
- Pháp luật chịu sự tác động của YTPL nhưng ngược lại nó cũng tác động tích cực đến việc hình thành, củng cố, phát triển YTPL.
- Bản thân sự tồn tại của hệ thống pháp luật cũng tác động bằng cách này hay cách khác tới ý thức của từng thành viên trong xã hội, phát triển và nâng cao YTPL của họ. Hệ thống pháp luật càng hoàn chỉnh thì càng tạo điều kiện cho việc nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.
- Trong pháp luật phản ánh những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc pháp lý tiên tiến của YTPL xã hội. Khi đó pháp luật đóng vai trò như là phương tiện truyền bá YTPL xã hội tới YTPL cá nhân, nâng cao YTPL của các cá nhân lên ngang tầm với YTPL tiên tiến trong xã hội.
- Không có pháp luật với tính cách là tổng thể các phạm trù, mà tất cả các yếu tố hợp thành của kiến trúc thượng tầng pháp lý đều tác động tích cực tới sự hình thành và phát triển YTPL trong toàn bộ hoạt động này, vai trò của cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là Tòa án trong hoạt động áp dụng pháp luật là rất quan trọng. Dựa trên cơ sở pháp chế, các nguyên tắc công bằng, nhân đạo, cơ quan bảo vệ pháp luật nhân danh nhà nước thực hiện công lý. Họat động của chúng tác động trực tiếp, tích cực đến việc hình thành, phát triển các quan niệm, tình cảm pháp luật đúng đắn, khẳng định trong ý thức công dân tính tất yếu, bất di bất dịch của những quyền và nghĩa vụ và tự do.

IV. Thực tiễn:
- Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VI nhấn mạnh:" Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật và cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân".
- Trên thực tế nước ta đi lên CNXH từ 1 điểm xuất phát thấp, thói quen sản xuất nhỏ, hạn chế về nhận thức, những tồn tại và tàn tích, tập tục lạc hậu vẫn còn vì vậy việc giáo dục nângcao YTPL còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Nhiều nhà nghiên cứu sử học khi nghiên cứu về truyền thống pháp luật ở Việt Nam đã từng nhận xét" Nước ta đã chịu hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng chúng ta không mất đi cái bản sắc, không bị đồng hóa, mà cội rễ của nó chính là văn hóa làng xã đã ăn sâu và là đặc trưng truyền thống của người Việt. Với căn cứ đó các nhà sử học đã khẳng định rằng, trong 1 thời gian dài người Việt có thói quen chống lại luật pháp, không tuân thủ pháp luật của nước đô hộ mà coi trọng những quy định của làng xã mà nay gọi là hương ước nhiều hơn". Hiện nay, ở nhiều vùng dân tộc thiều số, nhiều vùng không biết đến pháp luật, dẫn đến hiện tượng vi phạm pháp luật, hoặc xử lý không đúng pháp luật.
- Đó là chưa kể đến qua đợt tổng rà sóat các văn bản quy phạm pháp luật vừa qua đã phát hiện nhiều sai phạm, nhiều văn bản chồng chéo. Thực trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn lạc hậu cả về thể thức ban hành và nội dung ban hành. Văn bản thiếu minh bạch, thiếu thống nhất, nhiều văn bản pháp luật ra đời nhưng không đi vào cuộc sống. Mặt khác, nhiều văn bản của ta còn khó cập nhật dẫn đến tình trạng trong 1 bộ phận người dân khônghiểu luật, thờ ơ trước pháp luật.
* Phương hướng hoàn thiện:
- Trở lại với vấn đề thực tiễn hiện nay, chúng ta thấy để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống bên cạnh việc giáo dục, tuyên truyền,phổ biến pháp luật, cần tìm hiểu những giá trị của luật tục để đưa ra sự điều chỉnh về mặt pháp luật cho phù hợp. Ngôn ngữ của pháp luật phải phổ thông, dễ hiểu, dễ áp dụng trên thực tế. Văn bản pháp luật phải dễ truy cập, kết hợp giải quyết tốt mối quan hệ về tính hợp lý và tính hợp pháp để pháp luật có được tính khả thi, đi vào cuộc sống.
- Mở rộng dân chủ công khai, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách đông đảo vào việc soạn thảo, thảo luận, đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật để qua đó nâng cao YTPL của người dân.
- Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo thường xuyên, đầy đủ và toàn diện...
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ pháp lý có đủ năng lực, trình độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác pháp luật.
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, tổ chức cho nhân dân tham gia một cách mạnh mẽ vào công tác này, dùng sức mạnh pháp chế XHCN, kết hợp với dư luận quần chúng, đấu tranh chống những hành vi vi phạm pháp luật.
- Phải kết hợp giáo dục pháp luật vơi giáp dục đạo đức, văn hóa nâng cao trình độ chung của nhân dân.





Câu 19Cơ chế điều chỉnh của pháp luật.

I. Điều chỉnh pháp luật:
1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật:
- Điều chỉnh pháp luật được hiểu là việc nhà nước dựa vào pháp luật, sử dụng 1 loạt các phương tiện pháp lý đặc thù ( quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, những hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động đến các quan hệ xã hội theo hướng nhất định.
- Đặc điểm: + Là 1 những loại hình của điều chỉnh pháp luật.
+ Là điều chỉnh có tính định hướng, tính tổ chức và tính hiệu quả.
+ Là sự điều chỉnh được thực hiện thông qua 1 hệ thống các phương tiện pháp lý cơ bản, đặc thù.
2. Phạm vi điều chỉnh pháp luật:
- Phạm vi điều chỉnh pháp luật là phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật nói chung điều chỉnh.
- Phạm vi điều chỉnh của 1 văn bản pháp luật là các quan hệ xã hội được các văn bản đó điều chỉnh. Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của 1 văn bản pháp luật là các vấn đề được đặt ra và giải quyết trong văn bản đó.
- Xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật là xác định ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.

II. Cơ chế điều chỉnh pháp luật:
- Khái niệm "cơ chế điều chỉnh pháp luật" có ý nghĩa lớn về mặt phương pháp luận. Nó giúp cho người nghiên cứu tiếp cận pháp luật từ quan điểm hệ thống.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là khái niệm phức tạp:
+ Dưới góc độ chức năng: là hệ thống các phương tiện pháp lý tác động đến các quan hệ xã hội thông qua chủ thể.
+ Góc độ tâm lý: là sự tác động đến ý chí của con người nhằm tạo ra cách xử sự thích hợp (với quy phạm pháp luật) ở chủ thể.
+Góc độ xã hội: nằm trong cơ chế xã hội, tức cơ chế tác động của các quy phạm xã hội lên các quan hệ xã hội nhằm tạo ra 1 trật tự xã hội phù hợp với lợi ích cộng đồng xã hội.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là 1 quá trình thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội: 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: là giai đoạn định ra các quy phạm pháp luật.
Cơ chế điều chỉnh pháp luậtbắt đầu"hoạt động" bằng sự kiện đề ra các quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luật buộc các chủ thể phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội mà khuôn mẫu của hành động đó do chính quy phạm đưa ra.
+ Giai đoạn 2: là giai đoạn áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật để ban hành các quyết định áp dụng pháp luật. ( có trường hợp không có giai đoạn này).
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn xuất hiện các quan hệ pháp luật mà nội dung của nó là xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể (cá nhân , tổ chức).
+ Giai đoạn 4: là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý. Các chủ thể bằng hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong thực tiễn đời sống.
- Các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật:
+Yếu tố 1: ý thức cơ sở của cơ chế điều chỉnh pháp luật là quy phạm pháp luật. Đây chính là sự môhình hóa các hành vi xử sự trong quan hệ xã hội.
+ Yếu tố 2: là các quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tính cá biệt, cụ thể, nhằm đảm bảo đưa các yêu cầu của quy phạm pháp luật vào cuộc sống; hoặc bảo đảm sự xuất hiện các quan hệ pháp luật hoặc bảo đảm sự thực hiện quyền và nghĩa vụ.
+ Yếu tố 3: là các quan hệ pháp luật. Trên cơ sở quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo sáng kiến hoặc trên cơ sở xuất hiện các sự pháp lý khác, các quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là các quyền và nghĩa chủ thể.
+ Yếu tố 4: là các hành vi thực tế của các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, trên cơ sở pháp lý của cơ chế điều chỉnh pháp luật là quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luât tạo nên mô hình, khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể( cá nhân, tổ chức, cơ quan).
Trong nhiều trường hợp quy phạm pháp luật không thể tự thân đi vào cuộc sống nếu không có hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Nếu cơ chế điều chỉnh pháp luật có yếu tố quyết định áp dụng pháp luật: cơ chế điều chỉnh pháp luật phức tạp. Cũng có trường hợp quy phạm pháp luật được thực hiện 1 cách trực tiếp bởi các chủ thể mà không cần trải qua giai đoạn áp dụng pháp luật, trong trường hợp này ta có cơ chế điều chỉnh pháp luật đơn giản.
Ví dụ: chủ thể tuân thủ đúng những quy tắc hành vi chứa đựng trong pháp luật: làm việc phải làm, không làm việc bị cấm.
Các quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành kéo theo sự xuất hiện của quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh. Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật gắn liền với sự kiện pháp lý tức là những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống thực tế quy định trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Quan hệ pháp luật với nội dung là quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia chính là phương tiện để thực hiện quy phạm pháp luật. Và cuối cùng thông qua hành vi thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể mà quy phạm pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.


Sưu tầm

Nhận xét