Cơ quan quản lý nhân sự chung của cơ quan Hành chính nhà nước

 Bài làm của nhóm Giáp Hà Linh

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Đối tượng nghiên cứu và lí do chọn đề tài:
         “Con người là tài sản quan trọng nhất của chúng ta” (Jack Werchi - người đứng đầu công ty điện của Mỹ), “Anh có thể lấy đi toàn bộ công xưởng, thiết bị, thị trường, nguồn vốn của  tôi nhưng chỉ cần để lại cho tôi hệ thống tổ chức và nhân viên thì vài năm sau tôi vẫn có thể là vua thép” (ông vua của ngành công nghiệp thép Mỹ - Carnegie), “Con người chính là nhân tố quan trọng và then chốt nhất” (Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An - “Chiến lược nhân sự trong bối cảnh mới”).

        Trong bất kỳ một tổ chức nào, ở bất kỳ đâu, nguồn lực con người luôn luôn giữ một vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng, hiệu quả của từng hoạt động công việc. Đi cùng với đó là tầm quan trọng của hoạt động quản lý, sử dụng, đào tạo con người trong tổ chức.
       Với các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt động này càng phải được chú trọng hơn, khi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong hệ thống này chính là những người trực tiếp sử dụng quyền lực công của nhà nước giao phó để thực thi các hoạt động công vụ, thực thi các hoạt động chấp hành và điều hành có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhà nước và mỗi người dân.
     Cơ quan quản lý nhân sự chung của cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm về toàn bộ các công tác tổ chức, quản lý, sử dụng, đào tạo nhân sự nói chung của ngành hành pháp, ở nước ta hiện nay, đó là Bộ Nội vụ. Vậy, Bộ Nội vụ được hình thành và phát triển qua các giai đoạn nào? Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định ra sao? Hoạt động trong thực tế hiện nay của Bộ diễn ra như thế nào? Đã thực sự đảm bảo thực hiện tốt những trọng trách được giao phó? Đó là những vấn đề bài tiểu luận của chúng  tôi muốn nghiên cứu và làm rõ.   
         Trong giới hạn là một bài tiểu luận của sinh viên chúng tôi chỉ có thể cố gắng làm rõ một số vấn đề chính phù hợp với trình độ của mình, do vậy những thiếu sót là điều không thể tránh khỏi, rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
             II. Nhiệm vụ
           Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận về vị trí, chức năng của cơ quan quản lí nhân sự chung của cơ quan hành chính nhà nước.
           Thứ hai, thông qua các quy định của nhà nước để tìm hiểu rõ về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Nội vụ Việt Nam.
           Thứ ba, một số hoạt động của Bộ Nội vụ trong giai đoạn hiện nay và định hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Bộ.
III. Phương pháp nghiên cứu
        Bài tiểu luận có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như sau:
          + phương pháp thống kê.
+ phương pháp phân tích số liệu,
+ phương pháp tổng hợp,
+ phương pháp quan sát....


      




Chương 1:
Tổng quan về những vấn đề cơ bản của đề tài

I. Cơ quan hành chính Nhà nước và nhân sự trong cơ quan hành chính Nhà nước
1.Cơ quan hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính Nhà nước là một tổ chức lớn. Bao gồm nhiều yếu tố cấu thành bộ máy. Tùy thuộc vào cách thức tổ chức bộ máy hành chính mà hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước được hình thành theo nhiều cách khác nhau
Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước, đó là:
-Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, nghĩa là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt động được tiến hành trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và để thực hiện pháp luật.
- Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối trực tiếp nhất đưa đường lối, chính sách, pháp luật vào cuộc sống.
- Các cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống rất phức tạp, có số lượng đông đảo nhất, có mối liên hệ chặt chẽ, tạo thành một hệ thống thống nhất từ Trung ương tới địa phương, cơ sở, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của một trung tâm thống là nhất Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
- Thẩm quyền cơ quan hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành. Thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước hoặc trong những quy chế...
- Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp, hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp tương ứng và chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đó.
- Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước khác với hoạt động của cơ quan quyền lực, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát và hoạt động xét xử của Toà án. Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là đối tượng giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, của Toà án thông qua hoạt động xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế và hành chính. Một số văn bản pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp điều chỉnh một số vấn đề về tổ chức nội bộ của Viện kiểm sát và Toà án.
Các cơ quan hành chính nhà nước có đối tượng quản lý rộng lớn đó là những cơ quan, tổ chức, xí nghiệp trực thuộc, nhưng Toà án và Viện kiểm sát không có những đối tượng quản lý loại này.
2.Nhân sự trong cơ quan hành chính Nhà nước
Người lao động làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước nói chung và các cơ quan quản lí hành chính nói riêng rất lớn và có nhiều loại khác nhau. Theo cách phân loại người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước thì gồm có:
-Người làm việc trong hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước thông qua hình thức bầu cử
-Người làm việc theo chế độ tuyển dụng
-Công chức
Các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan quản lý Hành chính Nhà nước  nói riêng có mặt ở mọi vùng lãnh thổ quốc gia với số lượng các tổ chức con trong hệ thống các tổ chức hành chính là rất lớn. Lực lượng làm việc cho hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước sẽ có mặt không chỉ ở một địa điểm, một cơ quan mà có mặt ở tất cả mọi nơi. Nguồn nhân lực làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước có mặt ở: các cơ quan Hành chính Nhà nước ở Trung ương và các cơ quan Hành chính Nhà nước ở địa phương.
Bộ máy hành chính nhà nước thực hiện chức năng hành pháp nhằm thực thi pháp luật trên tất cả các lĩnh vực. Quản lý hành chính mang tính chất toàn diện và do đó đòi hỏi đội ngũ nhân sự làm việc cũng mang tính chất toàn diện. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau từ việc đề ra những chính sách vĩ mô đến việc triển khai tổ chức thực hiện các chính sách đó; từ việc quản lý vĩ mô, quản lý nhà nước đến việc tổ chức cung cấp các loại dịch vụ công cho xã hội đòi hỏi đội ngũ nhân sự của tổ chức cũng rất đa dạng về vị trí làm việc, về cấp bậc và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Tiểu kết mục I chương 1:
Quy mô và tính đa dạng về ngành nghề trong cơ quan hành chính nhà nước đã tạo nên những đặc trưng riêng của cơ quan quản lí nhân sự hành chính nhà nước. Quản lí hành chính nhà nước mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực và do đó đội ngũ cán bộ, nhân sự của hệ thống các cơ quan nhà nước rất đa dạng cả về ngành nghề và lĩnh vực hoạt động. Tính đa dạng đó tạo cho hệ thống cơ quan quản lí nhân sự của cơ quan hành chính nhà nước vừa to ở quy mô, vừa phức tạp ở cơ cấu tổ chức. Điều đó cũng đòi hỏi phải có một hình thức quản lí nhân sự khác với các tổ chức khác
II. Cơ quan quản lí nhân sự của cơ quan hành chính Nhà nước:
1.Cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lí nguồn nhân lực của hệ thống hành chính
Xét theo nguyên tắc tổng thể, hoạt động quản lí nguồn nhân lực của cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức theo hình thức vừa quản lí chung toàn bộ những người làm việc trong tất cả cơ quan hành chính nhà nước (chung) vừa quản lí nguồn nhân lực của từng cơ quan tạo nên bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới tận cơ sở
Tùy thuộc vào tổ chức hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước, số lượng đầu mối các cơ quan quản lí nhân lực sẽ không giống nhau trong từng cơ quan; mặt khác, phụ thuộc vào sự phân cấp quản lí nguồn nhân lực nói chung cho từng cơ quan quản lí hành chính nhà nước mà tổ chức các bộ phận quản lí nguồn nhân lực khác nhau.

2:Mối quan hệ giữa các cơ quan quản lí nguồn nhân lực trong hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước:
Mối quan hệ giữa các cơ quan quản lí nguồn nhân lực trong hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước được thiết lập trên cơ sở phân cấp hoạt động quản lí nguồn nhân lực trong tổng thể nền hành chính. Mối quan hệ giữa cơ quan quản lí nguồn nhân lực trong hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước có thể xem xét dưới nhiều giác độ khác nhau
Mối quan hệ giữa các cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung với các đơn vị quản lí nhân sự của các bộ, ngành, chính quyền địa phương. Mối quan hệ này được xác lập trên cơ sở phân cấp quản lí:
-Mối quan hệ giữa các cơ quan quản lí nhân sự của các cơ quan quản lí hành chính nhà nước trung ương. Đó là mối quan hệ giữa Ban Tổ chức cán bộ Chính Phủ với các Vụ tổ chức cán bộ của các Bộ, ngành ở Trung ương
-Mối quan hệ giữa Ban tổ chức Chính quyền tỉnh với các bộ phận (Phòng tổ chức cán bộ) của các sở, ban, ngành tại tỉnh
-Mối quan hệ giữa phòng tổ chức chính quyền huyện với các đơn vị thuộc huyện
-Mối quan hệ của các bộ phận quản lí nhân sự với nhau trong  sự hợp tác, trao đổi kinh nghiệm quản lí và có thể tạo cơ hội thuyên chuyển công tác trong các bộ, ngành
-Mối quan hệ trong các đơn vị tản quyền trung ương tới địa phương trong phát triển và khai thác, sử dụng nguồn nhân lực
-Mối quan hệ giữa các cơ quan quản lí nhân sự của Đảng, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội khác
-Mối quan hệ giưã quản lí và phát triển nguồn nhân lực xã hội-thường do một cơ quan quản lí nhà nước thực hiện với các cơ quan quản lí nguồn nhân lực của các cơ quan hành chính nhà nước
=> Tiểu kết mục II chương 1:
Như vậy có thể thấy rằng các cơ quan quản lí nguồn nhân lực của nền hành chính bao gồm:Cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung, cơ quan quản lí nguồn nhân lực của các cơ quan hành chính trung ương và các cơ quan quản lí nguồn nhân lực của các cơ quan quản lí hành chính địa phương. Trong đó cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung được trao quyền quản lí chung về nguồn nhân lực của cả hệ thống hành chính nhà nước




















Chương 2:
Cơ quan quản lí nhân sự chung của cơ quan hành chính Nhà nước

Nguồn nhân lực làm cho các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan quản lí hành chính nhà nước nói riêng đều được quản lí thống nhất thông qua một cơ quan quản lí nhân sự của cơ quan quản lí hành chính nhà nước
Tùy thuộc vào thể chế chính trị của quốc gia, các cơ quan nhà nước có thể có nhiều loại khác nhau và quản lí người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước do nhiều cơ quan quản lí nguồn nhân lực khác nhau đảm nhận

I.Tên gọi của các cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung:
Ở Pháp
 Vụ quản lí nguồn nhân lực thực hiện chức năng quản lí toàn bộ người lao động trong khu vực công. Trước đấy, chức năng quản lí nhân lực công giao cho hai cơ quan: Tổng cục hành chính, công vụ và Ủy ban cải cách nhà nước
Ở Phần Lan
Bộ Tài Chính là cơ quan không chỉ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tài chính mà còn là cơ quan quản lí nhân sự chung thông qua việc đưa ra các chính sách về nhân sự
Ở Hà Lan
Bộ nội vụ là cơ quan quản lí nhân sự Trung ương và là người thuê các quan chức cao cấp. Bộ Nội vụ có tổng cục quản lí và các chính sách nhân sự; tổng cục hành chính và văn phòng công cụ cao cấp; ngoài ra Bộ tài chính và Bộ tư pháp cũng tham gia trong hoạt động quản lí chung nhân sự công
Ở Mỹ
 Văn phòng quản lí nhân sự chịu trách nhiệm quản lí nhân sự Liên bang. Là cơ quan độc lập, trực thuộc Tổng Thống. Đó là cơ quan thay thế Ủy ban công vụ trước đây; chịu trách nhiệm quản lí hệ thống công vụ theo công trạng, tài năng đối với người làm việc cho Liên bang ( các bang có bộ máy riêng ) các hoạt động tuyển, thi chọn, đào tạo đều do cơ quan này đảm nhận
Ở Hàn Quốc
 Ủy ban công vụ được thành lập để thực hiện chức năng quản lí người làm việc trong các cơ quan nhà nước. Đây là cơ quan trực thuộc Tổng thống( độc lập). Bộ Nội Vụ và Hành chính nhà nước là cơ quan thực thi các vấn đề liên quan đến nhân sự nhà nước theo sự phân công giữa Bộ và Ủy ban công vụ. Xét trên nguyên tắc tổ chức, hai cơ quan này có hai chức năng khác nhau. Nhưng hiện nay trong xu thế cải cách hành chính đã sáp nhập để tạo nên một cơ quan quản lý nguồn nhân lực nhà nước chung
Ở Nhật Bản
 Hội đồng hệ thống nhân sự công nằm trong cơ quan phối hợp và quản lí đã được thành lập. Hội đồng này trên thực tế không phải cơ quan quản lí trực tiếp mà là cơ quan tư vấn cho Thủ tướng các vấn đề về nhân sự.
Ở Tây Ban Nha
 Bộ Hành chính công chịu trách nhiệm các vấn đề liên quan đến người làm việc trong cơ quan nhà nước.
Ở Bồ Đào Nha
 Việc thành lập Tổng cục hành chính là cơ quan quản lí nhân sự trung ương. Bên cạnh cơ quan này, Ban thư kí về hiện đại hóa nền hành chính là cơ quan chịu trách nhiệm về tư vấn về các vấn đề nhân sự công
Ở Na Uy
 Cơ quan quản lí nhân sự trung ương là bộ Lao động và Hành chính
Ở Đan Mạch
Bộ Tài Chính chịu trách nhiệm quản lí chung về nhân sự khu vực nhà nước thông qua việc xây dựng các chính sách về nhân sự
Ở Australia
Cơ quan quản lí công vụ liên bang là Ủy ban công vụ do một quan chức cao cấp đứng đầu
Ở Italia
 Cơ quan có trách nhiệm về quản lí người làm việc trong các cơ quan nhà nước là Cục công vụ trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng
Ở Việt Nam
 Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lí cán bộ, công chức nhà nước theo sự phân công của pháp luật

Tiểu kết mục I chương 2:
Cơ quan quản lí nguồn nhân lực của cả hệ thống cơ quan quản lí hành chính nhà nước (ngành hành pháp) hiện nay không có tên gọi chung, thống nhất giữa các nước.
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này có thể khác nhau không nhiều nhưng quyền hạn ( phân quyền)  cho các cơ quan quản lí nhân sự chung này phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của quốc gia. Do quyền lực trao cho các cơ quan này có thể khác nhau nên tên gọi của các cơ quan này không giống nhau



II. Tổ chức cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung
1. Vị trí của cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung trong tổng thể các cơ quan quản lí hành chính nhà nước nói chung:
- Có thể là một bộ phận nằm trong một Bộ chịu trách nhiệm chung về quản lí nguồn nhân lực của cả hệ thống cơ quan quản lí hành chính nhà nước như ở Pháp: Vụ quản lí nguồn nhân lực thực hiện chức năng quản lí toàn bộ người lao động làm việc trong khu vực công. Hay ở Balan, Hội đồng công vụ gồm 16 thành viên được thành lập để thực hiện các hoạt động tư vấn về quản lý nhân sự.
- Có thể là một cơ quan độc lập, trực thuộc người đứng đầu ngành hành pháp như mô hình của Mỹ (Văn phòng quản lí nhân sự là cơ quan độc lập trực thuộc Tổng Thống)
- Có thể là một bộ, chịu trách nhiệm các vấn đề nhân sự chung của cả hệ thống nhân sự hành chính. Việt Nam cũng tổ chức cơ quan này đó chính là Bộ Nội vụ. Ngoài ra trên thế giới cũng có rất nhiều nước tổ chức cơ quan quản lý nhân sự như của nước ta như: Hà Lan ( Bộ Nội Vụ), Phần Lan ( Bộ Tài Chính)
2. Cơ cấu tổ chức cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung của cơ quan hành chính:
-Trong trường hợp cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung là cơ quan ngang Bộ, cơ cấu tổ chức của cơ quan này giống như cơ cấu tổ chức của một Bộ quản lí chuyên ngành (ngành quản lí nhân sự)
-Trong trường hợp là một cơ quan nằm trong một Bộ được phân công quản lí nguồn nhân lực chung cho toàn bộ nền hành chính, cơ cấu tổ chức của cơ quan này giống như cơ cấu tổ chức của một Cục
-Trong trường hợp cơ quan quản lí nhân sự chung là một cơ quan độc lập, trực thuộc người đứng đầu hệ thống hành pháp, cơ cấu tổ chức của cơ quan này giống như cơ quan độc lập
3. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lí nguồn nhân lực
.Trong cơ chế tập trung quyền nhân sự của các cơ quan Nhà nước, đây là cơ quan cao nhất về quản lí nhân sự các tổ chức Nhà nước
 Cơ quan quản lí nguồn nhân lực chung của cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng tư vấn, xây dựng chính sách và tiêu chuẩn về nhân sự
-Xây dựng các chính sách định hướng về các chức vụ cụ thể
-Xây dựng các chính sách về lương
-Thanh tra, kiểm soát việc thực hiện các chính sách nhân sự.
Tiểu kết mục II chương 2:
Bộ phận quản lí nguồn nhân lực làm việc trong các cơ quan quản lí hành chính nhà nước có thể nằm ở nhiều vị trí khác nhau trong hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước
Cách thức tổ chức bộ phận quản lí nhân sự chung của cả nền hành chính tùy thuộc vào vị trí của cả cơ quan đó trong tổng thể chung của nền hành chính








Chương 3:
Bộ Nội Vụ- cơ quan quản lí nhân sự chung của cơ quan hành chính ở Việt Nam:

I.Sơ lược Lịch sử hình thành và phát triển của Bộ Nội Vụ
Ngày 06/1/1946, cuộc tổng tuyển cử đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 333 đại biểu đại diện cho các thế hệ, các ngành, các giới, các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tôn giáo, thành phần dân tộc và các đảng phái chính trị ở Việt Nam. Ngày 02/3/1946, Quốc hội đã họp phiên họp đầu tiên chấp nhận sự từ chức của Chính phủ Liên hiệp lâm thời và công nhận danh sách chính thức Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị, gồm 15 thành viên đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cơ cấu Chính phủ Liên hiệp kháng chiến có Bộ Nội vụ do cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sỹ yêu nước, có danh vọng lớn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tín cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử nhận nhiệm vụ khác
Riêng lĩnh vực trị an do Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ được thành lập ngày 23/2/1946,  đến ngày 16/2/1953 theo Sắc lệnh số 141- SL, Nha Công an thuộc Bộ được đổi tên thành Thứ Bộ Công an, Thứ Bộ Công an do một Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách. Đến tháng 8/1953, Thứ Bộ Công an đổi tên thành Bộ Công an. Như vậy, từ tháng 8 năm 1953 chức năng trị an tách ra khỏi Bộ Nội vụ.
- Theo Sắc lệnh số 137 ngày 15/ 02/1948, trong Bộ Nội vụ thành lập Nha Trung ương Hoa kiều vụ Việt Nam. Nha này theo Sắc lệnh số 133 ngày 20/8/1950 đã giải tán.
- Năm 1951, bộ phận chính quyền ở Phủ Thủ tướng được chuyển sang Bộ Nội vụ. Cũng trong năm này theo Sắc lệnh số 38 ngày 20/7/1951, Nha Thông tin thuộc Bộ Nội vụ sáp nhập vào Phủ Thủ tướng.
- Năm 1956, Bộ Nội vụ được giao thêm nhiệm vụ quản lý cán bộ, nhân viên, học sinh, thương binh bộ đội chuyển ngành và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc.
- Năm 1959, Tổ chức giúp Hội đồng phục viên được chuyển giao cho Bộ Nội vụ, vì theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ tháng 4/1959, Bộ Công thương sáp nhập vào Bộ Nội vụ. Trong Bộ Nội vụ, Vụ Thương binh và Phục viên được thành lập.
- Năm 1960, Quốc hội ban hành Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ. Ngày 29/9/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 130 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nội vụ, theo quy định này: Bộ Nội vụ “là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác tổ chức và dân chính theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước bảo đảm hoàn thành tốt công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước và công tác dân chính, nhằm phát huy tác dụng của bộ máy chính quyền nhân dân trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.
Từ năm 1961-1975 về tổ chức và nhiệm vụ của Bộ Nội vụ có một số thay đổi như sau:
Năm 1963, được giao nhiệm vụ phê chuẩn sự phân vạch địa giới hành chính xã và thị trấn.
Năm 1964, tách Vụ Thương binh và An toàn xã hội của Bộ Nội vụ thành Vụ Thương binh và Vụ An toàn xã hội (Quyết định số 187/QĐ/CP ngày 27/2/1964 của Chính phủ).
Năm 1965, thành lập một vụ số 8 trực thuộc Bộ Nội vụ.
Năm 1966, được giao nhiệm vụ giáo dục cải tạo gái điếm.
Năm 1967, thành lập Vụ Hưu trí thuộc Bộ Nội vụ.
Năm 1969, chuyển giao công tác quản lý biên chế hành chính sự nghiệp ở Bộ Nội vụ sang Bộ Lao động (QĐ số 140/CP ngày 14/8/1969). Cũng trong năm này Cục Quản lý nhà đất thuộc Bộ Nội vụ chuyển sang Bộ Kiến trúc quản lý.
Năm 1970, chuyển một số nhiệm vụ của Bộ Nội vụ sang Uỷ ban Thống nhất. Quyết định số 246/ TTg ngày 05/12/1970 chuyển nhiệm vụ quản lý gia đình cán bộ đi công tác Miền Tây từ Bộ Nội vụ sang Uỷ ban liên lạc kinh tế nước ngoài.
Năm 1973, theo Nghị định số 29/CP ngày 20/2/1973 của Hội đồng Chính phủ, Ban Tổ chức của Chính phủ được thành lập. Chức năng và đa số nhiệm vụ của Bộ Nội vụ được chuyển sang Ban Tổ chức của Chính phủ. Về cơ cấu tổ chức của Ban gồm có 5 đơn vị: Văn phòng; Vụ Tổ chức; Vụ Biên chế; Vụ Chính quyền địa phương và Vụ Cán bộ
Ngày 07/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 135- HĐBT qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ. Theo Nghị định này: “Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ là cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo và quản lý về tổ chức và cán bộ thuộc các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Về cơ cấu tổ chức của Ban gồm 9 đơn vị: Văn phòng Ban, Vụ Cán bộ, Vụ Viên chức, Vụ Chính quyền địa phương, Vụ Tổ chức, Vụ Tổng hợp- Pháp chế, Trung tâm Thông tin Tư liệu, Cơ quan thường trực miền Nam (tại thành phố Hồ Chí Minh) và Cơ quan thường trực miền Trung (tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà).
Chức năng nhiệm vụ của Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ đến ngày 27/10/1992 theo Nghị định số 06/NĐ-CP của Chính phủ được giao thêm nhiệm vụ trực tiếp quản lý Cục Lưu trữ Nhà nước.
Ngày 09/11/1994, căn cứ vào Luật Tổ chức của Chính phủ năm 1992, căn cứ vào Nghị định số 15/CP ngày 02/3/1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ, Chính phủ ban hành Nghị định số 181/CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ. Theo Nghị định này Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ là cơ quan ngang bộ. Nghị định số 181/CP qui định: Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực: Tổ chức bộ máy nhà nước; công chức và viên chức nhà nước; lập hội quần chúng và tổ chức phi chính phủ; phân vạch địa giới hành chính và công tác lưu trữ tài liệu quốc gia. Về cơ cấu tổ chức của Ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ theo Nghị định số 181/CP gồm có 10 đơn vị: Vụ Chính quyền địa phương, Vụ Tổ chức, Vụ Công chức - Viên chức, Vụ Biên chế và Tiền lương, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Thanh tra Pháp chế, Vụ Đào tạo, Cục Lưu trữ Nhà nước, Viện Nghiên cứu Khoa học tổ chức nhà nước, Văn phòng Ban (có bộ phận thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Khánh Hoà).
Ngày 05/8/2002, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 02/2002/QH11 quy định danh sách các bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Theo Nghị quyết này Ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ được đổi tên thành Bộ Nội vụ. Bộ Nội vụ là một trong 26 bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI (2002-2007). Ngày 19/9/2002, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 123/QĐ-TTg về việc chuyển Học viện Hành chính Quốc gia về Bộ Nội vụ. Việc đổi tên Ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ và việc sáp nhập Học viện Hành chính Quốc gia về Bộ Nội vụ là bước phát triển quan trọng của Bộ Nội vụ theo hướng tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Ngày 09/5/2003, Chính phủ ra Nghị định số 45/2003/NĐ-CP qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu của Bộ Nội vụ. Nghị định qui định rõ “Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, tổ chức chính quyền địa phương; quản lý địa giới hành chính; cán bộ công chức, viên chức nhà nước; tổ chức hội và tổ chức phi Chính phủ; văn thư lưu trữ nhà nước và các dịch vụ Về tổ chức của Bộ Nội vụ có 16 đơn vị trong đó có 12 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước:  Vụ Tổ chức- Biên chế; Vụ Chính quyền địa phương; Vụ Công chức- Viên chức; Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước; Vụ Tiền lương; Vụ Tổ chức phi Chính phủ; Vụ Cải cách hành chính; Vụ Hợp tác quốc tế; Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước; Vụ Tổ chức cán bộ; Thanh tra Bộ; Văn phòng (có cơ quan thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng) và 4 đơn vị sự nghiệp: Học viện Hành chính Quốc gia; Viện Nghiên cứu Khoa học tổ chức nhà nước; Tạp chí Tổ chức nhà nước; Trung tâm Tin học.
- Ngày 31/7/2007, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 01/2007/QH12 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ khoá XII, Bộ Nội vụ là một trong 22 bộ, cơ quan ngang bộ nhiệm kỳ Chính phủ khoá XII (2007-2011).
- Ngày 08/8/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/NĐ-CP về việc chuyển Ban Thi đua khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ vào Bộ Nội vụ.
Ngày 13/8/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1471/QĐ-TTg thành lập Vụ Công tác thanh niên thuộc Bộ Nội vụ. Năm 2011, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được thành lập trên cơ sở Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo Nghị định số 27/2011/NĐ-CP ngày 23/5/2011của Chính phủ. Ngày 31/8/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 76/2011/NĐ-CP chuyển giao Ban Cơ yếu Chính phủ từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng. Ngày 14/11/2011, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được thành lập trên cơ sở Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội theo Quyết định số 2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
II. Cơ cấu, vị trí, quyền hạn của Bộ Nội Vụ theo quy định của pháp luật:
Cơ cấu, vị trí và quyền hạn của Bộ Nội Vụ được quy định cụ thể, chi tiết trong Nghị định 61/2012/NĐ-CP ngày 10/8/2012
1.Vị trí và chức năng của Bộ Nội vụ:

Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực: tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nước; chính quyền địa phương, địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; hội, tổ chức phi chính phủ; thi đua, khen thưởng; tôn giáo; văn thư, lưu trữ nhà nước; thanh niên và quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
          2.  Nhiệm vụ và quyền hạn
            Bộ Nội vụ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Với vai trò là cơ quan quản lí nhân sự chung của cơ quan quản lí hành chính nên nhóm nghiên cứu chỉ đề cập đến các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan tới quản lí nhân sự hành chính nhà nước. Các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
2.1.Về quản lý biên chế:
a) Quyết định giao biên chế hành chính, biên chế làm việc ở nước ngoài của tổ chức thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ và biên chế hành chính thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng biên chế hành chính nhà nước hàng năm; 
b) Bổ sung biên chế hành chính cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong tổng biên chế dự phòng sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
c) Giao biên chế làm việc ở nước ngoài cho tổ chức của cơ quan thuộc Chính phủ và biên chế các tổ chức hội có sử dụng biên chế nhà nước sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
d) Tổng hợp và báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước của các cơ quan trong cả nước.
2.2.Về cán bộ, công chức, viên chức nhà nước:
a) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch cán bộ thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức;
b) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về: tuyển dụng, sử dụng, nâng ngạch, bổ nhiệm ngạch, chuyển ngạch; đánh giá, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm, biệt phái; kỷ luật, thôi việc, nghỉ hưu và các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật;
c) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Chính phủ về chức danh, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp trưởng phòng và tương đương đến thứ trưởng và tương đương của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; từ cấp trưởng phòng và tương đương thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đến giám đốc sở và tương đương thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
d) Quy định ngạch và mã ngạch; ban hành và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện tiêu chuẩn các ngạch công chức; cơ cấu ngạch công chức; công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức; số hiệu, thẻ công chức, trang phục đối với cán bộ, công chức;
đ) Tổ chức thi nâng ngạch từ ngạch chuyên viên chính lên ngạch chuyên viên cao cấp; quyết định bổ nhiệm ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương theo thẩm quyền; phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng ngân hàng đề thi nâng ngạch công chức, viên chức chuyên ngành; hướng dẫn về điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp việc tổ chức thi nâng ngạch công chức, viên chức chuyên ngành; kiểm tra, giám sát việc nâng ngạch công chức, viên chức;
e) Thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của các ngạch viên chức, cơ cấu ngạch viên chức, đánh giá, nội dung, hình thức thi tuyển, nâng ngạch viên chức chuyên ngành để các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quản lý ngạch viên chức chuyên ngành ban hành;
g) Thẩm định về nhân sự đối với các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
h) Tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ cao cấp theo phân công và phân cấp;
i) Xây dựng và quản lý dữ liệu quốc gia về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, cán bộ, công chức cấp xã và cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức theo phân cấp.
2.3. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước:
a) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở trong nước và ở nước ngoài, cán bộ, công chức cấp xã và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp;
b) Hướng dẫn các quy định của Chính phủ về tổ chức của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
c) Thống nhất quản lý về chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức hành chính, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và cán bộ, công chức cấp xã;
d) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức hành chính ngành nội vụ; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và cán bộ, công chức cấp xã;
đ) Phân bổ, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hàng năm sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổng hợp và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
2.4. Về chính sách tiền lương:
a) Hướng dẫn thực hiện quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về: chính sách, chế độ tiền lương (tiền lương tối thiểu; bảng lương; ngạch, bậc lương; chế độ phụ cấp; quản lý tiền lương và thu nhập); các chính sách, chế độ khác đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước từ Trung ương đến cấp xã; tiền lương lực lượng vũ trang và lao động hợp đồng trong các cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp nhà nước;
b) Hướng dẫn việc xếp ngạch, bậc lương đối với cán bộ, viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sỹ lực lượng vũ trang khi được điều động, luân chuyển về cơ quan hành chính, sự nghiệp nhà nước;
c) Hướng dẫn, kiểm tra: việc thực hiện chính sách, chế độ tiền lương, phụ cấp, sinh hoạt phí và tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang và lao động hợp đồng trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; việc nâng bậc lương đối với cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật; việc xếp hệ số lương khi bổ nhiệm ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
d) Làm thường trực Ban Chỉ đạo nghiên cứu và thực hiện cải cách chính sách tiền lương nhà nước.
2.5 Về thi đua, khen thưởng:
a) Hướng dẫn việc thực hiện quy định của Chính phủ về đối tượng, quy trình, thủ tục, thời gian xét đối với các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng; hình thức, thủ tục khen thưởng đơn giản; mẫu các hiện vật khen thưởng;
b) Tổ chức, hướng dẫn thực hiện các phong trào thi đua, chính sách khen thưởng của Đảng và Nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn về thi đua, khen thưởng đối với các ngành, các cấp;
c) Thẩm định hồ sơ đề nghị khen thưởng do các cơ quan, tổ chức trình Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc để Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định khen thưởng theo quy định của pháp luật;
d) Quy định việc thu hồi, cấp, đổi hiện vật khen thưởng theo quyết định của cấp có thẩm quyền; chịu trách nhiệm chuẩn bị hiện vật kèm theo các hình thức khen thưởng của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
đ) Vận động các nguồn tài trợ và quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng Trung ương; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý quỹ thi đua, khen thưởng ở các cấp, các ngành;
e) Làm thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương.

  3. Cơ cấu tổ chức của Bộ
Theo Nghị định 61/2012/NĐ-CP, ngày 10/8/2012 thì cơ cấu Bộ Nội vụ bao gồm:
A, Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lí nhà nước
1. Vụ Tổ chức - Biên chế.
2. Vụ Chính quyền địa phương.
3. Vụ Công chức - Viên chức.
4. Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
5. Vụ Tiền lương.
6. Vụ Tổ chức phi chính phủ.
7. Vụ Cải cách hành chính.
8. Vụ Hợp tác quốc tế.
9. Vụ Pháp chế.
10. Vụ Kế hoạch - Tài chính.
11. Vụ Tổng hợp.
12. Vụ Công tác thanh niên.
13. Vụ Tổ chức cán bộ.
14. Thanh tra Bộ.
15. Văn phòng Bộ (có đại diện của Văn phòng Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng).
16. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
17. Ban Tôn giáo Chính phủ.
18. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.
B, Các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ
1. Viện Khoa học tổ chức nhà nước.
2. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
3. Tạp chí Tổ chức nhà nước.
4. Trung tâm Thông tin.
5. Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Vụ Tổ chức - Biên chế được tổ chức 02 phòng, Vụ Chính quyền địa phương được tổ chức 04 phòng, Vụ Công chức - Viên chức được tổ chức 01 phòng, Vụ Kế hoạch - Tài chính được tổ chức 03 phòng, Thanh tra Bộ được tổ chức 03 phòng, Văn phòng Bộ được tổ chức 09 phòng và đại diện của Văn phòng Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.
III. Thực tiễn hoạt động của Bộ Nội Vụ trong thời gian gần đây:
1.Về việc thực hiện các chính sách về lương:
Nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Bộ Nội vụ có thể đi xem xét các hoạt động trình Chính phủ các dự thảo về các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đó. Nổi bật gần đây nhất có thể kể đến là dự thảo tăng mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức, viên chức, đã được áp dụng thực hiện từ ngày 01/05/2012. Vụ đảm trách công tác về tiền lương trong Bộ Nội vụ là Vụ Tiền lương. Vụ Tiền lương là tổ chức của Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về chính sách, chế độ tiền lương, phụ cấp, sinh hoạt phí và tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang và lao động hợp đồng trong các cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp của Nhà nước; và giúp Bộ trưởng làm nhiệm vụ thường trực Ban Chỉ đạo nghiên cứu và thực hiện cải cách chính sách tiền lương nhà nước.
Cụ thể, mức lương tối thiểu chung áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên từ 830.000 đồng/tháng lên 1.050.000 đồng/tháng, bắt đầu từ 1/5/2012. . Theo Nghị định 34/2012/NĐ-CP do Chính Phủ ban hành xét theo đề nghị của Bộ nội vụ, các Bộ có liên quan như Bộ Tài Chính, Bộ LĐTB-XH. Theo Nghị định này, chế độ phụ cấp công vụ của một số đối tượng cán bộ, công chức, sẽ tăng thêm 15%.

Về tạo nguồn cải cách tiền lương, theo Bộ Nội vụ là sẽ tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% kinh phí quản lý hành chính để tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc nâng cao hiệu quả công tác bố trí, sử dụng dự toán ngân sách nhà nước. Sử dụng 50% số tăng thu ngân sách địa phương để gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc bố trí, sử dụng biên chế, ngân sách. Đối với địa phương có số thu cao, tự bảo đảm và còn dư nguồn cải cách tiền lương thì được sử dụng nguồn dư đó để chi trả tiền lương tăng thêm không quá 50% so với chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc để thực hiện các nhiệm vụ cấp thiết khác. Sau khi thực hiện các nguồn nói trên mà vẫn còn thiếu thì ngân sách Trung ương sẽ bổ sung. 
          Ngoài ra, một giải pháp quan trọng khác cũng được Bộ Nội vụ đưa ra là sẽ chuyển đổi cơ chế cấp phát kinh phí sang hình thức đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí của từng loại hình dịch vụ. Đối với đơn vị sự nghiệp công có thu thì được chủ động sử dụng toàn bộ số thu để lại theo chế độ và các nguồn thu hợp pháp khác để chi thường xuyên, trong đó có công tác tiền lương.
2.Về việc thanh tra, kiểm soát các chính sách nhân sự:
Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí”, Ban Cán sự Đảng Bộ Nội vụ và Đảng ủy cơ quan Bộ Nội vụ đã ban hành Kế hoạch thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2009. Từ đó, các cơ quan, tổ chức thuộc Bộ Nội vụ cũng lập kế hoạch triển khai Cuộc vận động này cho từng quần chúng, đảng viên trong đơn vị.
Bộ đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa sau:
- Đảm bảo sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nhiệm vụ theo đúng quy định. Thực hiện hiệu quả Quyết định số 1267/QĐ-BNV ngày 21/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về giao định mức văn phòng phẩm và điện thoại đối với các đơn vị thuộc cơ quan Bộ; tăng cường kiểm tra kiểm soát hoạt động của đội xe về lịch trình đi công tác; bảo dưỡng, đại tu các phương tiện, thiết bị văn phòng;
- Tổ chức các cuộc họp, hội thảo, hội nghị đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, đúng định mức quy định. Lồng ghép các nội dung làm giảm thiểu số lượng cuộc họp, hội thảo, hội nghị, tập huấn đảm bảo chất lượng;
- Tổ chức phổ biến tài liệu, các quy định của pháp luật về Luật Cán bộ, công chức tại cơ quan nhằm thống nhất nhận thức, nâng cao hoạt động công vụ của cán bộ công chức;
- Theo dõi, đôn đốc các đơn vị thực hiện Chương trình công tác năm 2009 của Bộ đảm bảo tiến độ, chất lượng văn bản, đề án, dự án làm tăng hiệu quả góp phần đáng kể vào công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
- Tổ chức thanh lý tài sản (máy tính, bàn ghế, một số vật dụng khác) đã hết hạn sử dụng theo quy định;
- Các cuộc họp, hội nghị được tổ chức theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đã được quy định;
- Tổ chức đánh giá chứng nhận hệ thống tiêu chuẩn 38 quy trình ISO của Bộ đạt tiêu chuẩn chất lượng TCVN 9001:2000 và đề nghị Tổng cục đo lường tiêu chuẩn chất lượng cấp giấy chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của Bộ Nội vụ.
- Công bố các thủ tục hành chính của Bộ Nội vụ;
- Ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 của Bộ Nội vụ (Quyết định số 1154/QĐ-BNV ngày 30/7/2009).
Chỉ đạo sát sao cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc Bộ làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ luôn chấp hành nghiêm chỉnh các quy định chế độ, định mức, tiêu chuẩn; thực hiện nhiệm vụ được giao đảm bảo tuân thủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, công khai, minh bạch. Trong quý III năm 2009 không để xẩy ra tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến tham nhũng, tiêu cực.
Lãnh đạo Bộ đã trực tiếp điều chỉnh về phương pháp điều hành công việc, phân công chỉ đạo các đơn vị tập trung lực lượng và thời gian thực hiện nhiệm vụ trọng tâm theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc sát sao, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của đơn vị trong quá trình xây dựng dự thảo để đảm bảo trình các văn bản, đề án có chất lượng, đúng tiến độ.
3.Thực hiện chức năng tư vấn, tham mưu
Tham mưu giúp Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện tổng kết, đánh giá Chương trình tổng thể cải cách nền hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010 trong đó có cải cách về cán bộ công chức, chương trình tinh giảm biên chế đến năm 2011. Bộ Nội Vụ đã trình Chính phủ chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010, xây dựng kế hoạch và phối hợp với các bên có liên quan như các Bộ, chính quyền địa phương các cấp...để thực hiện. Tham mưu, chỉ đạo việc tổng kết đánh giá kết quả của Chương trình. Về chương trình tinh giảm biên chế đến năm 2011 theo Vụ Tổ chức – Biên chế, Bộ Nội vụ vừa cho VTC News biết, tính đến 31/8/2011, theo kết quả thẩm tra thực hiện chính sách tinh giản biên chế (theo Nghị định 132 của Chính phủ năm 2007) thì tổng số đối tượng được giải quyết tinh giản biên chế là 54 220 người.
4. Thực hiện chức năng tuyển chọn, đánh giá cán bộ, công chức
Trong thực tiễn hoạt động quản lý công chức công vụ Bộ Nội Vụ đã có nhiều định hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý.Bên cạnh, Luật Cán Bộ Công Chức là nền tảng, cơ sở pháp lý Bộ Nội Vụ còn ban hành nhiều quyết định, thông tư; nhằm hướng đến một nền công vụ “ phục vụ nhân dân” và hội nhập với nền công vụ thế giới.
 Quyết định 675/QĐ-BNV ngày 27/07/2012 về Việc thành lập Hội đồng giám sát kỳ thi nâng ngạch Công chức từ ngạch chuyên viên lên chuyên viên chính từ ngạch chuyên viên chính lên ngạch chuyên viên cấp cao.         Xây dựng Đề án “Thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng” . Do Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng cùng với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan, Đề án hướng đến mục tiêu là đề xuất các nội dung đổi mới tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng, tuyển chọn được người có phẩm chất và năng lực giữ các chức danh lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng, góp phần đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ,được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 11/2012, sau đó trình Bộ Chính trị.
Một vấn đè nóng hiện nay bằng Đại học tại chức liên tiếp bị nhiều tỉnh thành ra các văn bản từ chối tuyển dụng cán bộ, công chức.
Ngày 3/12/2010, UBND TP Đà Nẵng có văn bản gửi các sở, ban ngành, quận huyện chỉ đạo không tiếp nhận SV tốt nghiệp hệ tại chức vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc Nhà nước.
   Ngày 9/5/2011, UBND tỉnh Vĩnh Phúc quy định thi tuyển công chức của tỉnh phải là người có bằng tốt nghiệp ĐH hệ chính quy trở lên.
   Tháng 9/2011, hàng chục giáo viên hợp đồng dạy tiếng Anh tiểu học ở Nam Định phải nghỉ dạy vì chỉ có bằng tại chức. Họ không phải là những giáo viên vừa tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ mà từng giảng dạy nhiều năm. Có giáo viên đã có thâm niên trên 10 năm dạy học.
   Tháng 10/2011, tỉnh Hải Dương thông báo chỉ tuyển dụng những người có bằng ĐH chính quy, dù là học dân lập hay công lập đều được nhưng không tuyển tại chức.
   Tháng 8/2012, Sở GD&ĐT tỉnh Hà Nam thông báo chỉ tuyển ứng viên tốt nghiệp ở các trường công lập có uy tín về đào tạo giáo viên, bằng loại khá trở lên. Không hợp đồng những người tốt nghiệp ĐH tại chức hoặc ĐH chính quy theo các hình thức liên thông, liên kết, từ xa...
   Tháng 8/2012, tỉnh Quảng Nam thông báo tuyển gần 600 cán bộ công chức nhưng yêu cầu không tuyển ứng viên có bằng ĐH tại chức.
            Ngày 29/8/2012, trên Cổng Thông tin điện tử của tỉnh Nam Định, UBND tỉnh thông báo tuyển dụng công chức phải là người được đào tạo hệ chính quy tập trung dài hạn. Năm nay tỉnh có 184 chỉ tiêu, dự kiến thi tuyển vào trung tuần tháng 11/2012.
   Ngày 3/9/2012, UBND tỉnh Quảng Bình ban hành quyết định quy định chính sách sử dụng con em Quảng Bình tốt nghiệp ĐH, có hiệu lực đến ngày 31/12/2015. Theo đó, không xem bằng tốt nghiệp hệ tại chức để tuyển dụng vào các cơ quan, đơn vị thuộc Nhà nước.
           Một trong những nguyên nhân được ông Đặng Công Ngữ, Giám đốc Sở Nội vụ TP Đà Nẵng thì quy định đó nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Bên cạnh đó, còn do thành phố Đà Nẵng vẫn chưa bố trí được công việc cho nguồn nhân lực đang được đào tạo bằng kinh phí của thành phố.
           Nhiều tỉnh thành khác cũng đưa ra những lý do nghi ngờ chất lượng đào tạo của hệ Đại học này.
   Những quyết định này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến một lực lượng lớn người đang theo học hay đã có bằng tốt nghiệp tại chức, gây hoang mang và nhiều ý kiến trái chiều trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức tại các địa phương nói trên.
          Tuy nhiên, thực tế, dù là trong Luật Cán bộ, Công chức hay Luật Giáo dục đều không quy định không tuyển dụng với những đối tượng có bằng tại chức, hay có những phân biệt giá trị giữa bằng Đại học tại chức và bằng Đại học chính quy.
   Giải quyết vấn đề này, Bộ Nội vụ đã gửi công văn đề nghị các tỉnh thành trên rút kinh nghiệm và yêu cầu thực hiện đúng những quy định của Luật Giáo dục. Chất lượng đào tại hệ Đại học tại chức còn nhiều vấn đề phải chỉnh sửa và hoàn thiện, tuy nhiên, đó không thể là lý do để phân biệt tuyển dụng với những đối tượng này. Vấn đề cần làm hiện nay đó là cải thiện, nâng cao chất lượng của giáo dục hệ tại chức, đảm bảo công bằng cho các đối tượng trong công tác tuyển dụng.
                              Đánh giá những hoạt động của Bộ Nội Vụ
          Ưu điểm:
Có thể nhận thấy rằng trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình về quản lí nhân sự, Bộ Nội Vụ đã làm tốt công tác tham mưu và quản lí nhà nước về nhân sự hành chính, Đảm bảo biên chế cho bộ máy hành chính nhà nước trong hiện tại và tương lai, đảm bảo cho nền hành chính hoạt động thường xuyên liên tục hiệu quả qua hoạt động quy hoạch cán bộ, giao biên chế hành chính, xây dựng đội ngũ kế cận hàng năm của các tinh, các bộ,... lên kế hoạch biên chế của cấp mình trình Thủ tướng Chính phủ duyệt và cân bằng biên chế cho các cấp. Xây dựng và phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình kế hoạch nhân sự . Xây dựng hệ thống lương với các hệ số lương cho các ngành, ngạch, bậc tương đối  cụ thể và đầy đủ
Hạn chế:
Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, công tác tham mưu và quản lí nhà nước về công tác nhân sự của Bộ Nội vụ cũng còn nhiều hạn chế:
Các chính sách nhân sự của Bộ Nội vụ tham mưu cho Chính phủ chưa thực sự thúc đẩy được nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ, công nhân viên. Ví dụ, Chính sách tiền lương, các quy định về mức lương tối thiểu chung, tối thiểu nghành và vùng chưa phù hợp. Hiện nay lương chưa giúp lao động hành chính nhà nước đảm bảo cuộc sống, chưa linh động với sự thay đổi của thị trường, trong khi giá cả tiêu dùng ngày càng leo thang thì lương tăng không đáng kể.
Các chương trình đào tạo bồi dưỡng chủ yếu là giúp cán bộ công chức nâng ngạch, nâng bậc chứ chưa phục vụ cho việc nâng cao trình độ, kĩ năng cho đội ngũ cán bộ, công chức. Hơn nữa còn rất nhiều tiêu cực trong thi tuyển công chức, đó là tình trạng chạy điểm, trù dập và hạ điểm con dân, nâng điểm cháu “quan”. Điển hình là ở Bắc Kạn năm 2003, có 27 bài bị sửa có số điểm chênh lệch so với điểm thực thí sinh làm được từ 0,25 đến 1,5 điểm trong đó: 16 bài có số điểm cao hơn thực tế, 11 bài điểm thấp hơn thực tế. Rất nhiều bài thi tốt bị hạ thấp điểm để những thí sinh là con ông cháu cha được đủ điễm đỗ. Chính những tiêu cực này đã làm chất lượng cán bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu vì không có đủ năng lực
Bên cạnh đó vấn đề không tuyển dụng những người học bằng tại chức ở một số tỉnh chưa được giải quyết thỏa đáng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lí người dân

 IV. Nguyên nhân của những hạn chế và định hướng giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí của Bộ Nội Vụ phù hợp với xu hướng cải cách hành chính hiện nay
1.     Nguyên nhân của những hạn chế:
Thứ nhất: Do sự ảnh hưởng của tư tưởng cũ - hành chính bao cấp, cơ chế tập trung quan liêu chưa kịp thời được sửa đổi thay thế. Vẫn tồn tại cơ chế (xin-cho), chạy chức chạy quyền, thành kiến coi thường pháp luật, tham nhũng, đút lót vẫn thường xuyên xảy ra trong hoạt động quản lý nhân sự
Thứ 2: Do hạn chế năng lực cán bộ công chức làm công tác lập kế hoạch, quy hoạch chưa đáp ứng được nhiệm vụ công việc, chưa đáp ứng được nội dung của kế hoạch, quy hoạch và chưa sát với tình hình thực tế của việc lập kế hoạch vì vậy một số chính sách tham mưu cho Chính phủ chưa đi vào chiều sâu, chưa đúng với tình hình thực tế đòi hỏi của các cơ quan nhà nước gây ra những khó khăn và bất cập của công tác lập kế hoạch, quy hoạch công tác nhân sự hành chính. Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác lập kế hoạch, quy hoạch vẫn còn có những người không có khả năng chuyên môn cũng như trình độ kiến thức để thực hiện công việc có thể do họ được điều chuyển từ bộ phận khác sang hoặc được nhận vào mà chưa qua đào tạo hoặc đào tạo chưa sâu nên khó đáp ứng được nhiệm vụ công việc.
Thứ 3: Vẫn tồn tại tư tưởng coi trọng bằng cấp, thâm niên mà chưa chú trọng đến trình độ chuyên môn nghiệp vụ và khả năng của những người khác, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu công việc mà việc coi trọng bằng cấp sẽ gây ra tình trạng chạy điểm, chạy bằng mà không hoặc đáp ứng phần nhỏ yêu cầu công việc đặt ra.
Thứ 4:Trách nhiệm thực thi công vụ của công chức chưa rõ ràng còn chông chéo, giẫm đạp lên nhau, từ đó làm nảy sinh các vấn đề mẫu thuẫn, trách nhiệm cá nhân, nhiệm vụ từng cá nhân đơn vị trong cơ quan hành chính về hoạt động nhân sự sẽ khó khăn trong việc hoàn thành công việc mục tiêu của cơ quan, đơn vị.
2. Định hướng giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí của Bộ Nội Vụ để khắc phục hạn chế và phù hợp với xu hướng cải cách hành chính hiện nay
2.1.Xu hướng cải cách hành chính hiện nay
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu, mục đích xã hội của nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay  là: xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi- lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
2. Định hướng giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí của Bộ Nội Vụ
Có thể thấy rằng cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Với vai trò là cơ quan thực hiện việc quản lý nhân sự chung của nền hành chính thì sự chuyển đổi của nền hành chính có tác động mạnh mẽ tới việc quản lý nhân sự. Thật vậy, ở nền hành chính cai trị, nhà nước đóng vai trò độc tôn trong việc cung cấp cũng như bao cấp mọi việc, do vậy người cán bộ công chức thường có thái độ quan cách, hách dịch cũng như nhân dân đến với cơ quan công quyền có tâm trạng khá sợ sệt do cơ chế xin- cho tạo ra.
Nền hành chính phục vụ đòi hỏi dịch vụ mà nhà nước cung cấp cho nhân dân phải đạt được hiệu quả, lấy nhân dân làm trung tâm, hướng tới sự  hài lòng của người dân. Do vậy, một số tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc của người cán bộ công chức trong việc thực thi công vụ có nhiều thay đổi mà tiêu biểu đó là tiêu chí về thái độ phục vụ của cán bộ công  chức nói riêng và của những người làm trong cơ quan hành chính nói chung đối với nhân dân, phải coi nhân dân là " khách hàng", cung cấp cho họ những dịch vụ tốt nhất, có chất lượng nhất với thái độ thân thiện, gần gũi và nhiệt tình nhất.
Với đòi hỏi mới của nền hành chính phục vụ thì trình độ của người làm trong cơ quan nhà nước cần được không ngừng nâng cao về cả kiến thức chung, kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời, trong quá trình hoạch định chính sách về nguồn nhân lực, các kế hoạch phát triển nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước thì cấn coi trọng vấn đề thu hút người có tài, có đức vào khu vực nhà nước, các chế độ chính sách hỗ trợ, khen thưởng nhằm tạo động lực cho cán bộ công chức, thay đổi chế độ làm việc suốt đời của công chức bằng hợp đồng dài hạn nhằm tạo ra sức cạnh tranh, khả năng làm việc của công chức.
Các giải pháp cụ thể như:
- Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định nhằm mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai trong công tác cán bộ, làm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, có tầm nhìn xa và có tính khoa học, tránh được tình trạng tùy tiện, áp đặt chủ quan, cảm tính. Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử, thực hiện bầu cử có số dư một cách thực chất; mở rộng quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ. Ðổi mới và thực hiện tốt chế độ bỏ phiếu tín nhiệm, từ chức, thôi chức, miễn chức để kịp thời thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ. Ðổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định về công tác cán bộ; về quy trình công tác cán bộ, bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước, phát huy đầy đủ trách nhiệm của cấp ủy, cơ quan và người đứng đầu các cơ quan nhà nước.
-Thực hiện cơ chế phát hiện, thu hút, sử dụng và đãi ngộ người có tài năng trong công vụ. Việc thu hút được những người có trình độ  khả năng thực sự vào làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước đặc biệt trong lĩnh vực nhân sự sẽ góp phần không nhỏ vào hiệu quả thực hiện công việc, và những chính sách về thu hút sử dụng và đãi ngộ xứng đáng sẽ góp phần thu hút được nhiều người có khả năng vào cơ quan nhà nước làm việc với tâm huyết và hết mình vì công việc và mục đích chung của cơ quan.
-Nghiên cứu, áp dụng cơ chế thi tuyển cạnh tranh vào các vị trí việc làm trong các cơ quan nhà nước. Hiện nay việc tổ chức thi tuyển công chức vào các cơ quan nhà nước đang được sử dụng ngày càng rộng rãi và điều này đòi hỏi cơ quan nhân sự của Bộ Nội vụ có các văn bản hướng dẫn tổ chức thi tuyển công chức ở các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương được diễn ra một cách cạnh tranh bình đẳng minh bạch để có thể tuyển chọn được những người có khả năng thật sự và có tâm huyết với nghề vào làm việc.
Công tác lập kế hoạch về đào tạo, đánh giá cán bộ công chức phải gắn với vị trí và hiệu quả công việc. Công tác đào tạo và đánh giá cán bộ công chức cần căn cứ vào vị trí công việc mà công chức đó đảm nhận xem vị trí đó có thể đảm nhận được hay không và cần đào tạo những kiến thức kỹ năng gì để thực hiện công việc, và việc lập kế hoạch đào tạo sau khi đánh giá cán bộ công chức xem hiệu quả công việc họ thực hiện nếu hiệu quả thấp chưa đúng với mục tiêu thì cần phải tổ chức đào tạo cho họ để họ có thể đáp ứng và đạt hiệu quả cao trong công việc.


PHẦN KẾT LUẬN

Tổ chức nhân sự là quản lí con người trong tổ chức cũng như những người có thể sẽ tham gia vào nguồn lực của tổ chức đáp ứng những đòi hỏi của sự thay đổi môi trường trong đó nhằm đảm bảo cho tổ chức tồn tại và phát triển. Tổ chức nhân sự trong cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nói riêng có ý nghĩa quan trọng vì tính chất đặc biệt của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
       Trong giới hạn trình độ của sinh viên, nhóm sinh viên chúng tôi đã cố gắng dựa trên nền tảng lý luận, những căn cứ pháp lý, những hoạt động trong thực tế để đưa ra những kiến thức cơ bản về các cơ quan quản lý nhân sự chung của cơ quan hành chính nhà nước trên thế giới và Việt Nam. Trong đó, chúng tôi tập trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, quyền hạn của Bộ Nội vụ nước ta theo các quy định của pháp luật và xem xét một vài hoạt động của Bộ này trong thực tế, từ đó có những đánh giá khách quan và những định hướng giải quyết các vấn đề còn đang tồn tại. Bên cạnh đó, đây cũng là một khía cạnh tìm hiểu, giúp các bạn sinh viên có thêm những hiểu biết, cân nhắc khi lựa chọn vào thực tập, hay làm việc trong các cơ quan quản lý nhân sự chung của cơ quan hành chính nhà nước.
       Trong giới hạn kiến thức của sinh viên bài tiểu luận khó tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót rất mong nhận được sự đóng góp và ủng hộ của thầy cô và các bạn.




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình “ Nhân sự hành chính” ( Tập bài giảng dùng cho đào tạo cử nhân hành chính)
2.     Giáo trình “Tổ chức Nhân sự hành chính nhà nước” ( Đào tạo Đại học Hành chính)
3.Bài viết “ Cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”- PGS.TS Đinh Ngọc Vượng, Viện Nhà nước và pháp luật
4.     Chinhphu.vn
5.     Goodgle.com














Nhận xét